img
Thông báo
Sắp bắt đầu năm học mới, lớp hiện tại của bạn đang là lớp {{gradeId}}, bạn có muốn thay đổi lớp không?
img

Phân tích tác phẩm đất nước - Nguyễn Khoa Điềm

Tác giả Minh Châu 10:24 08/05/2024 110,141 Tag Lớp 12

Tác phẩm Đất nước là một tác phẩm vô cùng nổi tiếng trong chương trình văn học lớp 12. Để các em có thể dễ dàng ôn tập tác phẩm này, VUIHOC đã soạn đầy đủ dàn ý, sơ đồ và các bài văn mẫu để phân tích tác phẩm Đất nước. Các em cùng theo dõi bài viết và ôn tập cùng VUIHOC nhé!

Phân tích tác phẩm đất nước - Nguyễn Khoa Điềm
Mục lục bài viết
{{ section?.element?.title }}
{{ item?.title }}
Mục lục bài viết x
{{section?.element?.title}}
{{item?.title}}

1. Dàn ý phân tích tác phẩm Đất nước

1.1. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả của tác phẩm “Đất nước” - Nguyễn Khoa Điềm: ông là nhà thơ thế hệ chống Mĩ cứu nước, thơ của ông là sự kết hợp giữa chất triết lí, suy tư và cảm xúc nồng nàn của người trí thức về con người và đất nước.

- Giới thiệu về tác phẩm Đất nước: tác phẩm được trích từ trường ca Mặt đường khát vọng, là một bài thơ mang triết lí sâu sắc, thể hiện được tư tưởng mới “Đất nước của nhân dân”.

Tác giả Nguyễn Khoa Điềm

Tham khảo thêm: 

Tổng hợp mở bài Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm (Ngữ văn 12)

1.2. Thân bài phân tích tác phẩm Đất nước

* Đất nước được cảm nhận với phương diện văn hóa, lịch sử, chiều dài của thời gian, chiều sâu của không gian.

 Đất nước có từ bao giờ? (Giải thích cội nguồn của đất nước) (nằm ở 9 câu đầu)

- Tác giả khẳng định một vấn đề tất yếu: “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”, điều này đặt ra một điều thôi thúc con người về việc tìm về nguồn cội đất nước.

- Đất nước được bắt nguồn từ những điều gần gũi, bình dị trong đời sống của người dân Việt Nam từ rất xa xưa: “ngày xửa ngày xưa” là cụm từ luôn xuất hiện trong câu mở đầu của các câu chuyện dân gian, “miếng trầu” gợi mở đến tục ăn trầu của người Việt Nam và cả truyện cổ tích trầu cau, “Tóc mẹ thì bới sau đầu”: chính là một thói quen của những người phụ nữ Việt Nam xưa, “Thương nhau bằng gừng cay muối mặn” thể hiện thói quen về tâm lí, truyền thống yêu thương giúp đỡ lẫn nhau của dân tộc.

- Đất nước trưởng thành dần theo quá trình lao động sản xuất “cái kèo cái cột thành tên”, “một nắng hai sương”, thể hiện quá trình chiến đấu chống giặc ngoại xâm.
Nhận xét: Tác giả đã đưa ra những cái nhìn vô cùng mới mẻ về cội nguồn đất nước, đất nước được bắt nguồn từ chiều sâu của văn học, văn hóa, lịch sử và cả truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Định nghĩa về đất nước (thể hiện ở 28 câu thơ tiếp theo)

- Về góc nhìn không gian địa lí:

+ Tác giả tách rời 2 yếu tố “đất” và “nước” nhằm suy tư một cách sâu lắng.

+ Đất nước là một không gian riêng tư vô cùng quen thuộc gắn liền với không gian sinh hoạt của từng người: “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”; gắn liền với những kỉ niệm của tình yêu lứa đôi: “nơi em đánh rơi ... thương thầm”.

+ Đất nước cũng là không gian bao la rộng lớn, không gian sinh tồn của một cộng đồng qua bao đời và bao thế hệ: “Đất là nơi con chim phượng hoàng ... dân mình đoàn tụ”.

- Đất nước được nhìn xuyên suốt theo chiều dài của lịch sử từ quá khứ, hiện tại đến tương lai:

+ Trong quá khứ, đất nước là một nơi thiêng liêng, gắn liền với biết bao truyền thuyết, huyền thoại: “Đất là nơi chim về ... trong bọc trứng”

+ Trong hiện tại: đất nước có ở tấm lòng mỗi người, mỗi người đều được thừa hưởng những giá trị cốt lõi của đất nước, khi có sự liên kết giữa con người với nhau và con người với đất nước, đất nước sẽ trở thành một cái lớn lao, nồng thắm, hài hòa. Đó là sự gắn kết giữa cái chung với cái riêng.

+ Trong tương lai: thế hệ trẻ có thể “mang đất nước đi xa” “đến những ngày mơ mộng”, đất nước sẽ mãi bền vững, trường tồn theo thời gian.

- Suy nghĩ về trách nhiệm của từng cá nhân đối với đất nước: “Phải biết gắn bó và san sẻ”, cần đóng góp, hy sinh hết mình để góp phần gây dựng đất nước.
Nhận xét: qua cái nhìn toàn diện của tác giả, đất nước hiện lên vừa mang nét gần gũi, thân thương lại vừa hào hùng, thiêng liêng và trường tồn mãi mãi.

* Tư tưởng cốt lõi, cảm nhận sâu sắc về đất nước: đất nước của nhân dân

- Thiên nhiên và địa lý của đất nước không chỉ là sản phẩm được tạo ra từ tạo hóa mà còn được hình thành từ những phẩm chất và số phận của từng người, chúng là một phần xương máu, tâm hồn của con người:

+ Nhờ sự yêu thương hết mình, nghĩa tình thủy chung mà có “hòn Vọng Phu”, “hòn Trống Mái”

+ Nhờ có tinh thần bất khuất, anh dũng trong quá trình dựng và giữ nước mà xuất hiện những di tích lịch sử liên quan đến quá trình gây dựng nước nhà.

+ Nhờ vào truyền thống hiếu học mà xuất hiện những “núi Bút non Nghiên”

- Nhân dân ta làm nên một lịch sử 4000 năm:

+ Họ là những con người vô cùng bình dị nhưng luôn nung nấu một tình yêu nước.

+ Tác giả muốn nhấn mạnh vào những con người vô danh nhưng lại góp phần làm nên lịch sử, khẳng định được vai trò của từng cá nhân với lịch sử của dân tộc.

- Nhân dân tạo dựng và giữ gìn những giá trị vật chất, giá trị tinh thần cho đất nước: văn hóa: “truyền hạt lúa”, “truyền lửa”, “truyền giọng nói”, “gánh theo tên xã, tên làng”, ... từ đó gây dựng một nền móng giúp phát triển đất nước lâu bền.

- Tư tưởng cốt lõi, cảm hứng bao trùm lên cả đoạn trích: “đất nước này là đất nước của nhân dân đất nước của ca dao thần thoại”, đất nước trong tác phẩm được thể hiện thông qua tâm hồn con người: biết yêu thương, trọng tình nghĩa, biết công sức và biết chiến đấu hết mình vì đất nước.

- Nhận xét:

+ Về nội dung: đoạn trích “Đất nước” đã thể hiện rõ cái nhìn vô cùng mới mẻ về đất nước trên nhiều phương diện bao gồm: lịch sử, văn hóa, địa lí dựa vào tư tưởng cốt lõi: “đất nước của nhân dân”.

+ Về nghệ thuật: chất liệu văn hóa dân gian được sử dụng vô cùng đa dạng và sáng tạo, ngôn từ giàu chất suy tư và triết luận sâu sắc.

1.3. Kết bài

- Khẳng định một lần nữa giá trị của đoạn trích: đoạn trích đã nhấn mạnh vào tư tưởng “đất nước của nhân dân”, thể hiện được tinh thần yêu nước sâu sắc của tác giả, đánh thức tinh thần yêu nước của từng người.

- Nêu cảm nhận riêng về tác phẩm đất nước và có liên hệ vào thực tiễn về trách nhiệm của thế hệ trẻ ngày nay đối với đất nước.

 

2. Sơ đồ tư duy phân tích tác phẩm Đất nước

Để dễ dàng hình dung những gì cần phân tích, VUIHOC đã tổng hợp toàn bộ vấn đề phân tích thông qua sơ đồ tư duy dưới đây:

Sơ đồ tư duy giúp các em có thể dễ dàng nhận thấy từng phần của một tác phẩm để có thể phân tích tác phẩm đó mà không thiếu bất cứ ý chính nào.

Nắm trọn bí kíp ôn tập kiến thức Ngữ Văn 12 ngay!!!

 

3. Bài văn mẫu phân tích tác phẩm Đất nước

3.1 Phân tích đất nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu số 1

Đất nước luôn là một tiếng gọi thiêng liêng muôn nơi, muôn thuở và của hàng triệu trái tim con người Việt Nam. Đất nước đi vào đời sống mỗi chúng ta thông qua những lời ru êm dịu ngọt ngào, qua những làn điệu dân ca trong trẻo và những vần thơ thiết tha, sâu lắng và vô cùng tự hào của bao thế hệ thi nhân. Ta chứng kiến một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn hiện lên với ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng thật ý tứ, dịu dàng trong trang thơ Hoàng Cầm. Nhưng với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, ta lại gặp một cái nhìn toàn vẹn hơn, tổng hợp từ nhiều phương diện khác nhau về một đất nước của nhân dân. Tư tưởng đó đã quy tụ mọi cái nhìn và cảm nhận của tác giả Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Thông qua những câu thơ kết hợp giữa suy nghĩ và cảm xúc, trữ tình và chính luận, tác giả muốn thôi thúc ý thức và tinh thần dân tộc, tình cảm của nhân dân với đất nước, nhất là những thế hệ trẻ Việt Nam trong hoàn cảnh những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Mở đầu đoạn trích với một giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ là những lời tâm tình kết hợp với những hình ảnh thơ vô cùng bình dị gần gũi đưa ta trở lại với cội nguồn của đất nước.

"Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái ngày xửa

Ngày xưa mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc"

Đất nước trước tiên không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì gần gũi, thân thiết nhất ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi người dân. Đất Nước hiện ra trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mà mẹ từng kể, trong miếng trầu của bà, trong cây tre trước ngõ … gợi lên một Đất nước Việt Nam thật hiền hậu, thủy chung và tình nghĩa anh em sắt son, nhưng cũng vô cùng hào hùng khi chống quân xâm lược. Từng quả cau, mỗi miếng trầu, cây tre đều gợi lên một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm đẫm cội nguồn lịch sử của dân tộc.

Đất nước còn là hiện thân của biết bao phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng cho một dân tộc giàu truyền thống văn hóa, giàu tình thương yêu, gắn bó với mái ấm gia đình. “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Gừng đương nhiên là phải cay, muối tất nhiên là phải mặn. Tình yêu của cha mẹ sẽ mãi mãi mặn nồng như chân lí tự nhiên nói trên. Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ lại một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa yêu thương của một ai đó:

"Tay bưng đĩa muối chén gừng,

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau."

Đất nước còn là kết quả của công cuộc lao động vô cùng vất vả để sinh tồn, để gây dựng nhà cửa:

"Cái kèo cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó."

Ở đây Đất nước không chỉ là một khái niệm trừu tượng nữa mà nó cụ thể hơn, quen thuộc và giản dị làm sao. Tác giả sử dụng những chất liệu dân gian nhằm thể hiện suy nghĩ của mình về đất nước với quan niệm là “Đất nước của nhân dân”.

Vẫn bằng cách trò chuyện tâm tình với từng nhân vật đối thoại tưởng tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã diễn tả khái niệm đất nước theo một cách riêng của mình:

"Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm."

Đất nước không chỉ cảm nhận bởi khía cạnh không gian địa lý bao la từ những cánh rừng đến biển mà còn được cảm nhận từ không gian sinh hoạt hằng ngày của mỗi người, không gian ngọt ngào của tình yêu đôi lứa, không gian dịu dàng của nỗi nhớ thương. Ý niệm về đất nước được gợi tả từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành nó là đất và nước. Sử dụng lối chiết tự mà không ngô nghê, thật duyên dáng và ý tứ, có thể gợi ra một quan niệm mang những đặc trưng của dân tộc ta về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra và nhấn mạnh.

Đất gợi mở cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa cho tâm hồn em trong sáng dịu hiền. Cùng với thời gian lớn lên thì đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn. Không những thế, đất nước còn có vai trò như người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ nhung của những người đang yêu. Đất và nước tách rời khi mà anh và em đang là hai cá thể độc lập, còn hòa hợp khi anh và em kết lại với nhau. Chiếc khăn – một biểu tượng của nỗi nhớ nhung – đã từng khiến bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng: "Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất ...", một lần nữa lại làm cho lòng người xúc động, bồi hồi trước chuyện tình cảm chân thành của những tâm hồn yêu thương sâu đậm.

Đất Nước còn là nơi trở lại của những tâm hồn tha thiết với quê hương. Hình ảnh con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi mang đậm phong cách dân ca miền Trung, thể hiện lòng yêu quê hương sâu sắc của tác giả. Đất Nước thật bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi lại rất lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ, nhất là với những người ở nơi phương xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về. Gia đình Việt Nam là vậy, lúc nào cũng luôn hướng đến quê hương, hướng về cội nguồn dân tộc.

Đất Nước trường tồn mãi theo không gian và thời gian: Thời gian đằng đẵng, không gian lại mênh mông luôn là nơi dân tộc mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của biết bao cộng đồng Việt Nam qua nhiều thế hệ. Tác giả gợi tả truyền thuyết Lạc Long Quân và  u Cơ, về cả truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ. Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở con người cần phải nhớ về cội nguồn của dân tộc. Dù có bôn ba ở chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều phải hướng về đất tổ, nhớ về dòng giống Rồng Tiên của chính mình.

Nhắc đến chuyện xưa ấy như là một câu khẳng định, cũng là câu nhắc nhở:

Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ tự do, phóng túng nhưng thật ra đây là một hệ thống lập luận rất rõ ràng mà tác giả muốn thể hiện đất nước trong ba phương diện chính: trong chiều rộng của không gian lãnh thổ, về mặt địa lí; trong chiều dài bất tận của thời gian lịch sử; trong bề dày của văn hóa và phong tục, lối sống tâm hồn cùng tính cách dân tộc.

Ba phương diện ấy được thể hiện một cách gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện nào thì tư tưởng đất nước của nhân dân vẫn luôn là tư tưởng cốt lõi, nó như một hệ quy chiếu mọi suy tưởng và cảm xúc của nhà thơ.

Và cụ thể hơn nữa, gần gũi hơn hết, Đất nước hiện hữu ở ngay trong xương máu của mỗi chúng ta:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần đất nước

Đất nước đã thấm một cách tự nhiên vào xương máu, đã hóa thành máu thịt của mỗi con người, vì vậy sự sống của mỗi cá nhân không phải của riêng họ mà còn là của cả một đất nước. Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất cũng như tinh thần của đất nước, cần phải giữ gìn và bảo vệ để gây dựng nên một đất nước muôn đời.

Từ những quan niệm như trên về đất nước, phần sau của đoạn trích, tác giả tập trung làm nổi bật lên tư tưởng: Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là những người đã sáng lập nên Đất nước.

Tư tưởng đó đã dẫn tới một cái nhìn vô cùng mới lạ, có chiều sâu về không gian địa lí, về những danh lam thắng cảnh trên khắp mọi nơi trên đất nước. Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên ... không chỉ là những cảnh vật thiên nhiên nữa mà được cảm nhận dựa vào những cảnh ngộ, số phận của người dân, được nhìn nhận với vai trò là những đóng góp của người dân, sự hóa thân của những con người vô danh: "Những người vợ thương nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng yêu nhau sâu đậm góp nên hòn Trống Mái". Ở đây khung cảnh thiên nhiên qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm trí, xương máu của nhân dân. Chính nhân dân đã gây dựng nên đất nước, đã gọi tên, ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi dòng sông, ngọn núi. Từ những hình ảnh về cảnh vật, hiện tượng cụ thể, nhà thơ nắm gọn thành một khái quát sâu sắc:

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.

Tư tưởng Đất nước của người dân đã chi phối lên cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm dân tộc. Nhà thơ không ca ngợi về các triều đại, cũng chẳng nói đến những anh hùng được sử sách lưu danh mà chỉ tập trung nhắc đến những con người bình thường, vô danh và bình dị. Đất nước trước tiên là của nhân dân, của những con người vô danh bình thường ấy.

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất nước

Họ đã lao động và chống giặc ngoại xâm bằng cả tính mạng, họ đã giữ và truyền lửa cho các thế hệ mai sau về các giá trị văn hóa, vật chất và tinh thần của đất nước từ những điều giản dị nhất như hạt lúa, ngọn lửa, tên xã, tên làng, tiếng nói đến những câu truyện thần thoại, câu ca dao, tục ngữ. Mạch cảm xúc được lắng tụ lại để cuối cùng thì cao trào, làm nổi bật lên tư tưởng cốt lõi của của đoạn trích một cách vừa độc đáo, bất ngờ lại giản dị:
Đất nước này là Đất nước nhân dân.

Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại

Một định nghĩa vô cùng giản dị và bất ngờ về Đất nước. Đất nước của ca dao, của truyện thần thoại nhưng vẫn luôn thể hiện những phương diện quan trọng nhất về truyền thống nhân dân và thuộc về dân tộc: Thật đậm sâu trong tình yêu, biết quý trọng tình nghĩa và cũng thật anh dũng trong những cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm.

Những câu thơ khép lại với sự ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương cùng một tâm hồn lạc quan tươi mới. Tất cả luôn luôn hiện hữu trong tâm trí người đọc những tiếng tí tách reo vui ...

Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp phần thành công cho mảng thơ viết về Đất nước. Từ những cảm nhận vô cùng gần gũi, quen thuộc, Đất nước không còn lạ lẫm, trừu tượng mà trở nên thân thuộc mà vẫn rất thiêng liêng. Đọc “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm ta không chỉ nhớ đến cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại.

Đăng ký ngay để được các thầy cô ôn tập và lên lộ trình sớm ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn

 

3.2 Phân tích đất nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu số 2

Đất nước – hai tiếng gọi thiêng liêng ấy vang lên sâu thẳm trong tâm hồn ta; vừa cao cả lại trang trọng, lại vừa gần gũi, thân thương. Hình tượng “Đất Nước” đã khởi nguồn cho bao hồn thơ được chấp cánh bay xa.

“Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm cũng là một kiệt tác nằm trong dòng chảy dồi dào ấy và có phần đầy đủ hơn khi thống nhất được cội nguồn đất nước với tư tưởng đất nước của người dân.

Giản dị một cách tự nhiên, bài thơ mở đầu với khát khao muốn tìm hiểu đất nước đã có từ bao giờ:

“Khi ta lớn lên Đất Nước có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó…”

Khi xưa, đất nước gắn liền với những truyền thuyết, huyền thoại, với những vương triều vững mạnh. Ngày nay, Nguyễn Khoa Điềm tái hiện lại hành trình đó với sự quen thuộc, gần gũi. Có những cái xa xôi của lịch sử nhưng lại gần gũi trong kí ức thời thơ ấu. Đó là cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ kể cho con nghe; cái ấm cúng của những hình ảnh dưới mái nhà Việt, với “miếng trầu” đỏ thắm bà nhai, cây tre ngàn đời đánh giặc và tình nghĩa mẹ cha đằm thắm, đậm sâu. “Cội nguồn” không gì khác chính là gia đình thân thương, ấm cúng.

Những câu thơ nhẹ nhàng, ấm áp và trầm bổng trong đời, hòa trộn trong những câu ca dao, truyện cổ tích để làm nên âm điệu êm ái, sâu lắng. Đó là sự tích trầu cau “Miếng trầu nên dâu nhà người”, là sự tích Thánh Gióng lên ba tuổi nhổ tre mà đánh giặc, là lời ca dao “Muối gừng” trọn nghĩa thủy chung. Đất nước hiện lên trong từng câu thơ, bay bổng và tráng lệ dưới con mắt tinh tường của Nguyễn Khoa Điềm.

Đất Nước còn được thể hiện qua chiều rộng không gian địa lí – cách nhìn có lẽ không quá mới mẻ.

Ngày xưa, Nguyễn Đình Thi từng viết:

“Việt Nam đất nước ta ơi

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn.”

Đó là một không gian dài và rất rộng, rất cao mang một tầm vóc sử thi vô cùng tráng lệ.

Với Nguyễn Khoa Điềm:

“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm mát

Đất Nước là nơi ta hẹn hò

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ

Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở”

Đất nước là “nơi anh đến trường” – thể hiện cuộc sống học tập, “nơi em tắm mát” – thể hiện cuộc sống sinh hoạt hằng ngày dưới góc nhìn của thiếu nữ, là “nơi ta hẹn hò” – khởi đầu của tình yêu, “nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” – ghi dấu lại kỉ niệm của con người. Đó cũng là một không gian vô cùng trù phú, giàu có, bao la, vừa đẹp lại vừa rộng: “Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc – Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi”. Những điều gần với con người nhất, chiếc khăn đó là lời hát tha thiết trong một đêm tương tư “Khăn thương nhớ ai – Khăn rơi xuống đất”, gắn liền với lời hát điệu hò của xứ Bình Trị Thiên tự buổi nào.

Đất nước đồng thời cũng được nhìn theo khía cạnh chiều dài lịch sử:

“Lạc Long Quân và  Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”

Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.”

4000 năm lịch sử đã trở thành thiêng liêng với những trang sử chói lọi của cha ông:

“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập.”

(Bình Ngô đại cáo-Nguyễn Trãi)

Đến:

“Đất nước bốn nghìn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.”

(Mùa xuân nho nhỏ-Thanh Hải)

Sau này Chế lan Viên viết:

“Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm!

Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?

– Chưa đâu! Cả trong những ngày đẹp nhất

Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,

Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,

Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc.

Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…”

Đến Nguyễn Khoa Điềm, đó là một khoảng thời gian dài đằng đẵng, một không gian mênh mông, bao la. Đó là truyền thuyết kể về bọc trăm trứng, là nơi chim về, rồng ở, và tưởng nhớ về ngày giỗ Tổ thiêng liêng. Đó là kết quả trước sự tưởng tượng bay bổng của tâm hồn đầy khát khao, vẻ đẹp gần gũi và mơ mộng, bay bổng lại tráng lệ,…mà dường như cả trước và sau Nguyễn Khoa Điềm chưa từng ai nói về đất nước được như thế.
Đất nước cũng tiến vào chiều sâu trong mỗi đời người:

“Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất Nước vẹn tròn, to lớn

Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang Đất Nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng

Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình sứ xở

Làm lên Đất Nước muôn đời…”

Khi hai đứa “cầm tay” thì đất nước cũng “hài hòa nồng thắm”, ta “cầm tay mọi người” thì “vẹn tròn, to lớn”. Đất nước thể hiện tình yêu lứa đôi, tình đồng đội quê hương và thậm chí là “cốt nhục tình thâm”, Đất Nước là “máu xương” của ông cha ta. Đất nước được nhìn nhận từ cái chung đến cái riêng, từ cá nhân đến cộng đồng, từ xa đến gần, từ bề rộng đến bề sâu và từ cái hữu hình đến cái vô hình. Một cách sắp xếp vô cùng tự nhiên nhưng lại chặt chẽ và đượm lí, đượm tình.
Tiếp theo là tư tưởng đất nước của nhân dân. Một loạt những câu thơ tự do với biên giới thơ được mở rộng. Nhịp thơ chậm lại, mang một không khí tâm tình trò chuyện. Nghệ thuật liệt kê kết hợp với cách điệp lại cấu trúc nhằm nhấn mạnh ý thơ và liền mạch.

Lời thơ, giọng thơ trở nên sôi nổi, thiết tha và tràn đầy nhiệt huyết, khẳng định những đóng góp của người dân trong công cuộc hình thành đất nước. Đó là núi Vọng Phu – những năm tháng người vợ chờ đợi chung thủy được thể hiện qua ngọn núi sừng sững giữa trời. Đó là núi bút non nghiêng xây dựng từ lòng hiếu học của những tháng năm đèn sách miệt mài và hàng loạt các địa danh khác như “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”, với niềm tự hào sâu sắc trong lời ca ngợi non sông gấm vóc, “non kỳ thủy tú”. Con người cùng bao sự vật vô tri đã “hóa thân cho dáng hình xứ sở” và với tác giả thì đó chính là niềm kính trọng trước công lao to lớn của người dân, xây đắp “hình sông thế núi”.

Khẳng định đất nước là của nhân dân đồng thời cũng như là lời yêu cầu về tình yêu đất nước, thức tỉnh lòng tự hào cùng tinh thần dân tộc trong mỗi con người. “Em ơi em” là lời gọi vô cùng ngọt ngào, trìu mến, tha thiết, đầy thủ thỉ tâm tình. Vậy là nói đến những điều lớn lao mà không sáo rỗng. Nhân dân là ai? Là những người “con trai, con gái” bằng tuổi chúng ta, và cũng là những người ra trận, cũng là những kẻ ở lại, có những vị anh hùng “cả anh và em đều nhớ” nhưng cũng có những anh hùng vô danh mà “Không ai nhớ mặt đặt tên – Nhưng họ đã làm ra đất nước”. “Họ đã sống và chết – Giản dị và bình tâm”, lời thơ giống như một nén nhang từ tâm còn vương khói thắp lên cho sự hy sinh anh dũng của nhân dân, dân tộc.

Trong suốt bốn nghìn năm đất nước, nhân dân ta luôn giữ từng hạt lúa, truyền từng ngọn lửa, truyền lại giọng nói, với những tên xã, tên làng, đắp đập be bờ để chống giặc ngoại xâm. Các giá trị vật chất luôn đi kèm với giá trị văn hóa tinh thần, cả kiến quốc lẫn vệ quốc. Những câu thơ gợi mở tới hình ảnh: những cô gái mở đường, tiểu đội xe không kính, anh giải phóng quân:

“Em là cô gái hay nàng tiên?

Em có tuổi hay không có tuổi?”

Hoặc:

“Hoan hô anh giải phóng quân

Kính chào Anh, con người đẹp nhất!”

Tác giả đã lựa chọn tư liệu văn hóa dân tộc trong những câu ca dao, thể hiện được ý nghĩ, cảm xúc. Hiện lên rõ nét là chân dung tinh thần bất khuất của nhân dân. Tâm hồn dân tộc gửi gắm vào trong dân gian nay trở thành chiều sâu của văn hóa. Nhìn ở cả khía cạnh chiều dài, chiều rộng lẫn chiều sâu đều thấy được vai trò vô cùng quan trọng của nhân dân, họ vừa tạo ra lại vừa bảo vệ. Vì vậy, “Đất Nước này là đất nước của nhân dân”.

“Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm chính là bản nhạc mang âm hưởng dân tộc trong điệu hồn kháng chiến, là lời thôi thúc tình yêu nước cho mỗi thế hệ Việt Nam ngày nay và mai sau.

 

PAS VUIHOCGIẢI PHÁP ÔN LUYỆN CÁ NHÂN HÓA

Khóa học online ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT:  

⭐ Xây dựng lộ trình học từ mất gốc đến 27+  

⭐ Chọn thầy cô, lớp, môn học theo sở thích  

⭐ Tương tác trực tiếp hai chiều cùng thầy cô  

⭐ Học đi học lại đến khi nào hiểu bài thì thôi

⭐ Rèn tips tricks giúp tăng tốc thời gian làm đề

⭐ Tặng full bộ tài liệu độc quyền trong quá trình học tập

Đăng ký học thử miễn phí ngay!!

Qua bài viết này, VUIHOC hy vọng các em có thể nắm được cách phân tích tác phẩm Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Đây là một tác phẩm trọng tâm và vô cùng quan trọng trong qua trình ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn. Vì vậy, các em cần nắm chắc và phân tích được những ý chính trong tác phẩm một cách tốt nhất. Để học thêm những kiến thức hay về Ngữ Văn 12 nói riêng và các môn học khác nói chung, nhanh tay truy cập website vuihoc.vn hoặc đăng ký các khoá học với thầy cô VUIHOC ngay nhé!

>>> Các bài viết tham khảo thêm:

Soạn bài Luật thơ

Soạn bài phát biểu theo chủ đề

Soạn bài đất nước

Banner afterpost tag lớp 12
| đánh giá
Hotline: 0987810990