img
Thông báo
Sắp bắt đầu năm học mới, lớp hiện tại của bạn đang là lớp {{gradeId}}, bạn có muốn thay đổi lớp không?
img

Soạn bài Kể lại một truyền thuyết| Văn 6 kết nối tri thức

Tác giả Hoàng Uyên 11:20 26/11/2024 2 Tag Lớp 6

Soạn bài Kể lại một truyền thuyết trong chương trình sách giáo khoa lớp 6 bộ Kết nối tri thức với cuộc sống là một phần bài tập làm văn thú vị. Dưới đây là top 20 mẫu viết bài văn kể lại một truyền thuyết lớp 6 xuất sắc để các em học sinh tham khảo, giúp các em có thể chuẩn bị một bài văn hay và ý nghĩa trước khi trình bày trước lớp.

Soạn bài Kể lại một truyền thuyết| Văn 6 kết nối tri thức
Mục lục bài viết
{{ section?.element?.title }}
{{ item?.title }}
Mục lục bài viết x
{{section?.element?.title}}
{{item?.title}}

Soạn bài Kể lại một truyền thuyết| Văn 6 kết nối tri thức

1. Kể lại một truyền thuyết: Sự tích Hồ Gươm

1.1 Mẫu số 1: 

Trong thời kỳ giặc Minh xâm lược, chúng coi nhân dân ta như cỏ rác, làm nhiều điều bạo ngược khiến người dân phải sống trong cảnh thống khổ. Tại vùng núi Lam Sơn, nghĩa quân đã nổi dậy để chống lại giặc Minh, nhưng ban đầu sức mạnh còn yếu ớt và thường xuyên thất bại. Trước tình hình đó, Đức Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn gươm thần để chiến đấu.

Ở Thanh Hóa có một ngư dân tên là Lê Thận. Một đêm, khi thả lưới ở một bến vắng, Thận cảm giác lưới nặng hơn bình thường, tưởng rằng đã bắt được nhiều cá. Khi kéo lưới lên, anh chỉ vớt được một thanh sắt. Anh đã vứt nó xuống sông và tiếp tục thả lưới ở chỗ khác. Thật kỳ lạ, ba lần liên tiếp, Thận đều kéo được thanh sắt ấy. Sau đó, anh cho thanh sắt vào lửa để nhìn rõ hơn và phát hiện ra đó là một thanh gươm.

Sau này, Thận gia nhập nghĩa quân Lam Sơn. Một lần, Lê Lợi, chủ tướng của nghĩa quân, đến thăm nhà Thận. Khi thấy ánh sáng lóe lên ở góc nhà, Lê Lợi lại gần và phát hiện trên thanh gươm có hai chữ “Thuận Thiên”, nhưng không nghĩ rằng đó là gươm thần.

Khi bị giặc truy đuổi, Lê Lợi và các tướng tản ra mỗi người một hướng. Trong một khu rừng, ông thấy ánh sáng lấp ló trên một cây đa. Khi trèo lên, ông nhận ra đó là chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ đến lưỡi gươm của Lê Thận, ông mang chuôi về và khi tra vào lưỡi gươm thì vừa khớp hoàn hảo.

Một năm sau, nhờ có gươm thần, nghĩa quân của Lê Lợi liên tục giành thắng lợi và được lòng dân. Quân Minh cuối cùng bị đánh tan và Lê Lợi lên ngôi vua với niên hiệu Lê Thái Tổ. Khi vua đang cưỡi thuyền trên hồ Tả Vọng, Rùa Vàng nổi lên và đòi lại thanh gươm thần, nói rằng:

- Việc lớn đã thành. Xin bệ hạ trả lại gươm báu cho đức Long Quân.

Lê Lợi đã cảm tạ Rùa Vàng và đức Long Quân trước khi trả gươm. Sau đó, Rùa Vàng lặn xuống hồ, từ đó hồ Tả Vọng được gọi là hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm. 

1.2 Mẫu số 2

Thời kỳ giặc Minh đô hộ nước ta, chúng đối xử với nhân dân tàn bạo, coi họ như cỏ rác và bóc lột đến tận xương tủy. Toàn thể dân chúng đều căm phẫn trước sự áp bức này. Tại vùng Lam Sơn, một lực lượng nghĩa quân đã nổi dậy để chống lại kẻ thù, nhưng vì lực lượng còn yếu và thiếu thốn nhiều thứ, họ thường phải nhận thất bại. Trước tình cảnh đó, Đức Long Quân quyết định cho mượn gươm thần để giúp họ đánh giặc.

Tại Thanh Hóa, có một người ngư dân tên là Lê Thận. Một đêm, khi đang thả lưới như mọi khi, Thận cảm thấy lưới nặng hơn bình thường và nghĩ mình đã bắt được nhiều cá. Thế nhưng, khi kéo lưới lên, chàng chỉ thấy một thanh sắt và liền vứt nó xuống nước, rồi lại thả lưới ở chỗ khác.

Khi lần thứ hai lưới lại nặng, Thận không ngờ thanh sắt trước đó lại mắc vào lưới mình. Chàng lại ném thanh sắt xuống sông. Tuy nhiên, đến lần thứ ba, thanh sắt ấy lại xuất hiện trong lưới. Thắc mắc, Thận mang thanh sắt lại gần lửa và vô cùng ngạc nhiên khi nhận ra đó là một lưỡi gươm.

Sau này, Lê Thận gia nhập đoàn nghĩa quân Lam Sơn. Một ngày, Lê Lợi, chủ tướng của họ, cùng một vài tùy tùng tới thăm nhà Thận. Trong túp lều tối tăm, thanh sắt bỗng sáng rực lên ở một góc nhà. Lê Lợi thấy lạ, liền cầm lên xem và phát hiện hai chữ “Thuận Thiên” được khắc trên lưỡi gươm, nhưng không ai biết đây chính là gươm thần.

Một lần, trong cuộc phục kích của giặc, Lê Lợi và các tướng phải rút lui mỗi người theo một hướng. Khi đi qua một khu rừng, ông bỗng thấy ánh sáng lạ trên ngọn cây đa. Trèo lên, Lê Lợi phát hiện ra đó là một chuôi gươm nạm ngọc, và nhớ đến lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, ông đã lấy chuôi giắt vào bên hông.

Vài ngày sau, khi gặp lại mọi người, trong đó có Lê Thận, Lê Lợi đã kể cho họ nghe về chuôi gươm và sau đó tra chuôi vào lưỡi gươm thì vừa khớp hoàn hảo.

Lê Thận quỳ xuống, nâng gươm lên và nói:

- Đây chính là ý trời ủy thác cho minh công thực hiện việc lớn. Chúng tôi nguyện theo minh công, cùng thanh gươm để báo đáp Tổ quốc.

Từ khi có thanh gươm quý, tinh thần của nghĩa quân ngày càng tăng cường. Quân Minh liên tục bại trận, và đất nước dần giành được độc lập. Lê Lợi sau đó lên ngôi vua.

Một năm sau, nhà vua ra dạo quanh hồ Tả Vọng trên thuyền rồng. Nhân dịp này, Đức Long Quân đã sai Rùa Vàng lên đòi lại thanh gươm báu. Rùa Vàng không ngại ngần, nhô đầu lên khỏi mặt nước và tiến về phía thuyền vua, nói: “Xin bệ hạ hoàn lại gươm cho Long Quân!”

Vua nâng gươm hướng về phía Rùa Vàng. Ngay lập tức, Rùa há miệng đớp lấy thanh gươm rồi lặn xuống nước. Từ đó, hồ Tả Vọng được đổi tên thành hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm. 

2. Kể lại một truyền thuyết: Thánh Gióng

2.1 Bài tham khảo 1

Thời Hùng Vương thứ sáu, có một đôi vợ chồng già sống trong một làng nhỏ, chăm chỉ làm ăn và nổi tiếng phúc đức. Dù đã lớn tuổi nhưng họ vẫn chưa có con. Một ngày, bà vợ ra đồng và nhìn thấy một dấu chân to, bà liền đặt chân mình lên để thử. Về nhà, không lâu sau, bà mang thai. Thế nhưng, điều bất ngờ là phải đến mười hai tháng sau, bà mới sinh ra một cậu bé khôi ngô, trong lòng cha mẹ tràn ngập niềm vui vì đây là ước mơ cả đời của họ. Nhưng cậu bé không biết nói, không biết cười, chỉ nằm một chỗ, dù đã ba tuổi, khiến ông bà rất buồn bã.

Trong lúc ấy, giặc Ân xâm lược nước ta, gây ra bao tội ác khiến dân chúng khốn khổ. Trước tình hình nghiêm trọng, nhà vua sai sứ giả đi khắp nơi kêu gọi anh hùng cứu nước. Sứ giả đi đến đâu cũng rao:

- Ai có tài, có sức xin hãy ra giúp vua cứu nước.

Nghe tiếng rao, cậu Gióng đang nằm trên giường bỗng lên tiếng:

- Mẹ ơi! Mẹ mời sứ giả vào đây cho con.

Vợ chồng ông lão nghe vậy vô cùng ngạc nhiên, lập tức mời sứ giả vào nhà. Cậu Gióng yêu cầu sứ giả chuẩn bị ngay roi sắt, ngựa sắt và áo giáp sắt để cậu có thể ra trận đánh giặc.

Kỳ diệu thay, từ khi gặp sứ giả, cậu Gióng lớn nhanh như thổi. Cậu ăn mãi mà vẫn không đủ no, áo vừa mới mặc đã bị rách. Vợ chồng ông bà phải nhờ hàng xóm giúp đỡ nuôi cậu, và ai cũng mong ước cậu ra trận để cứu dân. 

Khi giặc đã đến chân núi Trâu, người dân hoảng sợ. May thay, sứ giả mang những thứ cậu Gióng yêu cầu đến kịp. Cậu vươn vai đứng dậy như một chiến sĩ, khoác áo giáp, cầm roi nhảy lên ngựa lao thẳng vào trận. Với sức mạnh như ngàn người, cậu đã khiến quân giặc khiếp sợ. Trong khi giao tranh ác liệt, roi sắt của cậu bị gãy, cậu đã lập tức nhổ từng bụi tre bên đường quật vào lũ giặc. Quân thù bỏ chạy nhưng nhanh chóng bị tiêu diệt hoàn toàn.

Sau khi dẹp tan giặc, cậu Gióng không quay về để nhận thưởng mà thúc ngựa phi đến núi Sóc, để lại áo giáp sắt, rồi một người một ngựa bay thẳng lên trời. Để lại nhiều truyền thuyết, sau này có người kể rằng khi ngựa thét lên, một ngọn lửa lớn đã thiêu rụi một làng, từ đó ngôi làng ấy được gọi là làng Cháy. Những vết chân ngựa ngàn xưa giờ đã thành ao hồ nối tiếp nhau.

Câu chuyện về người anh hùng Thánh Gióng đã trở thành niềm đam mê không chỉ của riêng em mà còn của bao thế hệ học sinh. 

2.2 Bài tham khảo 2 

Ngày xửa ngày xưa, vào thời vua Hùng Vương thứ sáu, có một cặp vợ chồng đã già nhưng vẫn không có con. Họ nổi tiếng là người hiền hậu, đôn hậu ở làng, nhưng không hiểu sao lại gặp phải những điều không may như vậy. Một ngày nọ, khi bà lão ra đồng, bà bất ngờ phát hiện một dấu chân to khổng lồ. Tò mò, bà thử đặt chân mình lên để xem nó to cỡ nào. Thời gian trôi đi, bà dần quên đi dấu chân đó, cho đến một ngày bà bất ngờ mang thai. Hai ông bà vô cùng mừng rỡ khi bà sinh ra một cậu bé khôi ngô, tuấn tú. Thế nhưng, từ khi ra đời, đứa trẻ lại không biết nói, không biết cười và chỉ nằm một chỗ. Từ niềm vui sinh con, họ chuyển sang lo lắng và buồn bã vì không hiểu lý do.

Trong khi đó, giặc Ân xâm lược nước ta, khiến đời sống nhân dân trở nên khốn khổ. Tình hình đất nước lúc này như “nghìn cân treo sợi tóc”. Vua đã sai sứ giả đi khắp nơi để tìm kiếm nhân tài nhằm cứu nước. Khi sứ giả đến làng Gióng và rao truyền lời kêu gọi, cậu bé bỗng cất tiếng gọi mẹ: “Mẹ ơi, hãy mời sứ giả vào đây cho con”. Hai ông bà ngạc nhiên và vui mừng khi nghe con mình lần đầu tiên nói chuyện, lập tức mời sứ giả vào.

Khi sứ giả vào nhà, cậu bé liền yêu cầu chuẩn bị những vũ khí cần thiết để đánh giặc: ngựa sắt, áo giáp sắt và nhiều thứ khác để chiến đấu chống lại kẻ xâm lược. Sứ giả rất vui mừng và vội vàng trở về tâu với vua và nhà vua đồng ý với yêu cầu của cậu. Thật kỳ diệu, từ khi gặp sứ giả, Thánh Gióng lớn lên nhanh chóng, ăn mãi mà vẫn không đủ no, quần áo thì chật. Cậu nhanh chóng biến thành một chàng trai cao lớn, mạnh mẽ, với sức mạnh vô song.

Không lâu sau, nhà vua đã gửi đến đủ các thứ Gióng yêu cầu. Thánh Gióng lập tức lên đường để đánh giặc. Mỗi nơi cậu đi qua đều đánh bại quân địch. Khi kiếm bị gãy, Gióng không ngần ngại nhổ thắng một bụi cỏ bên đường và dùng nó để quật ngã kẻ thù. Khi ngựa của Thánh Gióng đến chân núi Sóc Sơn, cậu đã cởi bộ giáp sắt và bay thẳng lên trời.

Để tri ân công lao của Thánh Gióng, nhà vua đã cho xây dựng đền thờ tại quê hương của ông, là làng Gióng. Đến nay, nhiều dấu tích xưa vẫn còn tồn tại và hằng năm vào tháng 4, người dân thường đến đền thờ Phù Đổng Thiên Vương để tưởng nhớ vị anh hùng này. 

>> Xem thêm: Soạn văn 6 kết nối tri thức 

2.3 Bài tham khảo 3

Từ khi còn nhỏ, chúng ta đã lớn lên bên những câu chuyện tuyệt vời mà bà và mẹ kể lại, những câu chuyện về lịch sử hào hùng và truyền thuyết kỳ bí. Những câu chuyện này đã gieo trong lòng chúng ta sự tự hào và lòng tôn kính đối với các anh hùng trong truyền thuyết của dân tộc. Truyền thuyết về Thánh Gióng là một trong những câu chuyện nổi bật về một vị anh hùng oai phong, lẫm liệt của dân tộc.

Vào thời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng có một đôi vợ chồng lão nông chăm chỉ làm ăn và nổi tiếng phúc đức, nhưng họ chưa có con. Một ngày, khi bà lão ra đồng, bà bất ngờ nhìn thấy một vết chân to lớn và tò mò đặt chân mình lên để đo thử. Kỳ diệu thay, sau đó bà mang thai và mười hai tháng sau, sinh ra một cậu bé khôi ngô. Hai vợ chồng vui mừng khôn xiết, nhưng dần dần họ nhận ra điều kỳ lạ: cậu bé đã ba tuổi nhưng vẫn không biết nói, không biết cười, chỉ nằm một chỗ.

Cùng lúc đó, giặc Ân xâm lược nước ta, gây ra nỗi lo lắng khôn cùng cho nhà vua. Ông đã sai sứ giả khắp nơi tìm kiếm nhân tài cứu nước. Thật bất ngờ, khi nghe thấy lời kêu gọi từ sứ giả, cậu bé đột ngột cất tiếng: “Mẹ hãy mời sứ giả vào đây.” Khi sứ giả đến, cậu bé liền yêu cầu: “Ông hãy về báo cho vua làm cho tôi một con ngựa sắt, một roi sắt và một tấm áo giáp sắt, tôi sẽ tiêu diệt lũ giặc này.” Sứ giả vừa ngạc nhiên vừa vui mừng lập tức quay về tâu lên vua và nhà vua đã ra lệnh cho các thợ làm những vật phẩm cần thiết.

Điều kỳ diệu là từ ngày gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh chóng, ăn mãi mà vẫn không đủ no, quần áo thì chóng chật. Vợ chồng ông lão không đủ sức nuôi con nên phải nhờ hàng xóm giúp đỡ. Ai cũng vui lòng góp gạo cho cậu, chỉ mong rằng cậu sẽ giúp tiêu diệt giặc, bảo vệ dân lành.

Khi giặc đã đến chân núi Trâu, sứ giả cũng kịp mang vũ khí đến. Gióng liền vươn vai đứng dậy, lập tức hóa thân thành một tráng sĩ, đeo giáp, cầm roi sắt, chào mẹ và dân làng trước khi nhảy lên ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng vào hàng giặc, khiến chúng ngã như rạ. Nhưng bỗng dưng roi sắt gãy, tráng sĩ liền nhổ những bụi tre bên đường quật vào quân thù. Khi bọn giặc tan tác, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc. Tại đây, một mình một ngựa, tráng sĩ bay lên đỉnh núi, cởi bỏ giáp sắt, vái tạ mẹ rồi cùng ngựa bay lên trời.

Để ghi nhớ công lao của tráng sĩ, vua đã sắc phong là Phù Đổng Thiên Vương và xây dựng đền thờ ngay tại quê hương ông. Ngày nay, đền thờ vẫn còn tồn tại ở làng Phù Đổng, thường được gọi là làng Gióng. Những dấu vết chân ngựa in xuống xưa kia giờ đã thành những ao hồ nối tiếp nhau, là di tích chứng tỏ chiến công oanh liệt của Thánh Gióng. 

3. Kể lại một truyền thuyết: Sự tích Hồ Ba Bể

Ngày xửa ngày xưa, ở xã Nam Mẫu thuộc tỉnh Bắc Kạn có phong tục mở hội cầu Phật vào dịp đầu năm. Người dân ăn mặc đẹp đẽ, nô nức lên chùa thắp hương, khấn vái để cầu mong nhiều điều may mắn. 

Một hôm, một bà lão ăn xin từ đâu đến, trông thật đáng sợ với thân hình gầy gò, lở loét, quần áo rách rưới bốc lên mùi hôi thối. Bà vừa đi vừa thều thào xin ăn: “Tôi đói quá! Mong các ông, các bà giúp đỡ!”. Mọi người thấy vậy sợ hãi và đẩy bà ra khỏi đám đông. Khi bà lê bước đến ngã ba, bà gặp một người mẹ và cậu con trai đang trở về từ chợ. Thương cảm trước hình ảnh tội nghiệp của bà, người mẹ đã đưa bà về nhà, cho bà ăn cơm và mời ở lại qua đêm.

Đến tối, hai mẹ con nhìn về phía bà lão nằm thì thấy ánh sáng rực rỡ tỏa ra. Một con giao long khổng lồ đang cuộn mình ở góc nhà, đầu gác lên xà nhà và đuôi thò xuống đất. Hai mẹ con kinh hãi, không dám nhúc nhích, nhắm mắt lại chờ đợi số phận.

Sáng hôm sau, họ thức dậy thì không thấy con giao long đâu. Bà cụ ăn xin đã trở lại hình dáng ốm yếu. Khi chuẩn bị ra đi, bà gọi người mẹ lại và báo rằng khu vực này sắp có lụt lớn. Bà đưa cho người mẹ một gói tro bếp và dặn phải rắc quanh nhà. Người mẹ lo lắng hỏi làm thế nào để cứu người bị nạn. Bà cụ nhặt một hạt thóc, cắn vỡ, rồi đưa hai mảnh vỏ trấu, dặn dùng chúng để làm việc thiện. Chỉ trong chớp mắt, bà cụ biến mất. Hai mẹ con không khỏi bàng hoàng. Người mẹ vội vàng kể lại câu chuyện cho dân làng nghe, nhưng chẳng ai tin cả.

Quả đúng như lời bà lão, tối hôm đó, khi mọi người đang lễ bái, một cột nước mạnh mẽ từ dưới đất phụt lên. Nước phun đến đâu, đất lở đến đấy. Dân làng hoảng loạn, chen nhau tìm đường thoát. Đột nhiên, một tiếng ầm vang lên rung chuyển mặt đất, nhà cửa và mọi vật chỉ trong giây lát đã chìm sâu trong biển nước.

Tuy nhiên, ngôi nhà nhỏ của hai mẹ con tốt bụng vẫn khô ráo và nguyên vẹn, nước ngập đến đâu, nền nhà lại nâng lên đến đó. Thấy cảnh tượng thảm khốc, người mẹ nhớ lại lời dặn của bà lão, liền thả hai mảnh vỏ trấu xuống nước. Lạ lùng thay, chúng lập tức biến thành hai chiếc thuyền độc mộc. Dù thời tiết khắc nghiệt, hai mẹ con đã ra sức cứu vớt những người gặp nạn. Khi nước rút, chỗ đất bị sụp xuống đã biến thành hồ Ba Bể, còn nền nhà của họ biến thành một gò nổi giữa hồ, được gọi là gò Bà Góa.

Câu chuyện cổ tích cảm động này được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác trong cộng đồng, với mong muốn giáo dục con cháu về lòng thương người, sự trắc ẩn, và rằng những người sống hiền lành ắt hẳn sẽ nhận được điều tốt đẹp. 

4. Kể lại một truyền thuyết: Chử Đồng Tử - Tiên Dung

Ngày xửa ngày xưa, tại nước Văn Lang, vua Hùng Vương thứ ba có một người con gái xinh đẹp như tiên, được đặt tên là Tiên Dung. Mặc dù có vẻ đẹp mê hồn, nhưng công chúa Tiên Dung lại tỏ ra thờ ơ trước tình cảm của những chàng hoàng tử, vua chúa từ các nước láng giềng. 

Tiên Dung rất yêu thiên nhiên và thường dành cả ngày để khám phá những cảnh đẹp trong vương quốc của mình. Vua Hùng, hết mực thương yêu con gái, luôn hỗ trợ nàng trong việc khám phá các con sông, ban cho Tiên Dung nhiều thuyền, tàu cùng lính canh để đảm bảo an toàn trong những chuyến đi. Điều này khiến công chúa vô cùng hạnh phúc.

Ở một ngôi làng xa xôi mang tên Chử Xá, có một người đàn ông nghèo làm nghề đánh cá, sống với cậu con trai duy nhất tên là Chử Đồng Tử. Hai cha con sống trong một ngôi nhà tranh nhỏ, vật lộn với cuộc sống hàng ngày. Một ngày, tai họa bất ngờ ập đến khi một trận hỏa hoạn thiêu rụi mọi thứ, chỉ còn lại chiếc khố duy nhất. Sau đó, họ phải thay nhau mặc chiếc khố đó.

Khi người cha đang trong cơn bệnh nặng, ông dặn con hãy để ông ra đi trong trạng thái trần truồng. Không nỡ, Chử Đồng Tử đã lấy chiếc khố để liệm cha và chôn cất. Từ đó, chàng không có gì để che thân, chỉ có thể ra ngoài vào ban đêm để câu cá và ban ngày phải nửa người dưới nước.

Một ngày đẹp trời, khi thuyền của Tiên Dung cập bến Chử Xá để khám phá cảnh đẹp, tiếng trống rộn ràng cùng đoàn tùy tùng đã khiến Chử Đồng Tử giật mình. Chàng vội nấp sau bụi cỏ, đào một cái hố để che thân. Tiên Dung rất ngưỡng mộ vẻ đẹp của dòng sông và khao khát được tắm. Đoàn tùy tùng đã dựng lều trên bờ sông để công chúa thay trang phục. Khi nước từ dòng sông chảy xuống, đã cuốn trôi lớp cát che phủ Chử Đồng Tử. Lúc này, nàng phát hiện ra chàng trai không mảnh vải che thân.

Ngạc nhiên trước sự có mặt của Chử Đồng Tử, Tiên Dung vội vàng che thân trong khi chàng thanh niên sợ hãi nằm im. Chàng giải thích rằng mình chỉ có một chiếc khố đã dùng liệm cha và phải ẩn mình để tránh sự chú ý. Nhận ra lòng chàng trai không có gì sai trái, Tiên Dung chấp nhận tình huống, cho rằng đây là số mệnh. Nàng phán rằng: “Tôi chưa từng định lấy chồng, nhưng thật trùng hợp khi gặp anh. Chắc chắn đây là ý trời.” Sau đó, nàng ra lệnh cho lính hầu mang áo quần cho Chử Đồng Tử và chuẩn bị cho lễ cưới.

Chỉ trong đêm đó, lễ cưới của họ đã diễn ra tại dòng sông nơi họ gặp nhau. Tuy nhiên, khi tin về đám cưới đến tai vua cha, ông vô cùng tức giận và tuyên bố cấm con gái mình quay lại hoàng cung mãi mãi. Không thể trở lại cung điện, Tiên Dung sống cùng chồng và dùng tài sản còn lại để buôn bán sinh sống. Với kinh nghiệm buôn bán của Chử Đồng Tử và nhan sắc của Tiên Dung, công việc của họ thịnh vượng, khiến làng Chử Xá nổi tiếng và thu hút nhiều thương nhân trong vương quốc cũng như các nước láng giềng.

Một ngày nọ, trong chuyến đi lấy hàng, một cơn bão lớn đã cuốn Chử Đồng Tử đến hòn đảo Quỳnh Viên, nơi chàng gặp một đạo sĩ. Vị đạo sĩ nhận thấy trên trán chàng sự bất tử, nên đã đề nghị chàng ở lại một năm để học đạo.

Sau một năm, Chử Đồng Tử trở về bên Tiên Dung. Trước khi chia tay, đạo sĩ đã trao cho chàng một chiếc gậy và một cái nón lá cọ, dặn rằng chúng sẽ bảo vệ chàng và đáp ứng những ước muốn của chàng. Về đến nhà, Chử Đồng Tử kể cho vợ nghe những điều mình đã học. Mong muốn tìm kiếm một con đường mới, họ quyết định bỏ lại tài sản để tìm nơi hoang vắng sống theo chính đạo.

Họ đã đi bộ suốt cả ngày và quyết định nghỉ chân tại một nơi hoang vắng. Trước khi ngủ, Chử Đồng Tử đặt cây gậy xuống và úp nón lá lên trên. Giữa đêm khuya, một tiếng sét lớn đánh thức họ. Khi họ thức dậy, trước mặt họ xuất hiện một cổng thành lấp lánh. Bên trong là một lâu đài bằng ngọc bích chứa đựng châu báu, xung quanh là quần thần và lính gác chào đón họ. Họ đã trở thành những người trị vì một triều đại hưng thịnh và yên bình.

Tin về lâu đài đến tai vua cha, ông giận giữ cho rằng con gái mình xây dựng triều đại riêng nhằm chống đối. Ngay lập tức, ông ra lệnh tập hợp binh lính để tiêu diệt vương quốc của con gái.

Khi quân đội của nhà vua gần tới nơi, mọi người trong lâu đài của Tiên Dung khẩn thiết xin ra chống lại, nhưng nàng bình tĩnh trả lời: “Ta không thể chống lại ý trời. Nơi này do trời tạo ra, hãy để trời quyết định số phận của nó. Ta đã chống lại cha mình một lần, lần này hãy để ông ấy quyết định.”

Đêm đến, quân của Hùng Vương cắm trại bên bờ sông gần lâu đài, chờ trời sáng để tấn công. Thật kỳ lạ, một cơn bão lớn ập đến, cuốn đi cả thành quách của Tiên Dung lên trời.

Sáng hôm sau, quân đội của Hùng Vương tiến vào, nhưng chỉ còn lại một đầm lầy và bãi cát trắng, không còn dấu vết nào của lâu đài. Trở về vương quốc của mình, Hùng Vương nhận ra sai lầm và đã xây dựng một ngôi đền tại chỗ từng là lâu đài của Tiên Dung và Chử Đồng Tử để tưởng niệm họ. Ông đặt tên cho đầm là đầm Nhất Dạ, có nghĩa là đầm hình thành chỉ trong một đêm, còn bãi cát trắng được gọi là bãi Tự Nhiên. 

5. Kể lại một truyền thuyết: Mai An Tiêm

Theo truyền thuyết, Mai An Tiêm, tên thật là Mai Yển, là con nuôi của Vua Hùng thứ 18. Từ nhỏ, Mai An Tiêm đã là một cậu bé thông minh và lanh lợi. Khi lớn lên, chàng không chỉ mạnh khỏe, chăm chỉ làm việc mà còn khéo tay làm được nhiều việc. Nhờ đó, Vua Hùng yêu quý và gả con gái ông cho chàng. Sau thời gian, vợ chồng Mai An Tiêm đã xây dựng được một ngôi nhà khang trang, cuộc sống đầy đủ với lúa gạo tích trữ. Thấy vậy, những kẻ ganh ghét đã tâu với Vua Hùng rằng: “An Tiêm coi thường ân vua, cho rằng của cải đạt được hoàn toàn là nhờ sức lực và sự cố gắng của mình.” Vua Hùng tức giận và ra lệnh đày cả gia đình Mai An Tiêm đến một hòn đảo hoang vắng ngoài biển Đông.

Trên hòn đảo hoang, vợ chồng Mai An Tiêm và hai con đã phải vật lộn với thiên nhiên, sống trong những hang đá để tránh mưa nắng. Họ dùng cành cây nhọn để đào đất tìm nước uống, mài đá để tạo lửa và mò cua, bắt ốc để làm thức ăn. Một ngày, có một con chim trắng từ phương Tây bay đến và làm rơi những hạt cây màu đen xuống bãi cát. Mai An Tiêm nghĩ rằng nếu chim ăn được thì người cũng có thể ăn. Chàng quyết định trồng thử những hạt cây đó. Sau vài tháng, cây phát triển lan ra mặt đất với nhiều quả xanh bóng lớn như đầu người lớn. Khi bổ quả ra ăn thử, chàng thấy ruột quả đỏ tươi với vị ngọt thơm ngon. Chàng đặt tên cho loại quả lạ đó là Tây Qua, vì chim đã mang hạt từ Tây đến. Sau này, người Tàu gọi nó là “Hấu”, và người đời sau gọi là dưa hấu.

Mai An Tiêm đã gieo trồng hạt dưa khắp đảo. Khi dưa đã nhiều, chàng dùng que nhọn khắc chữ lên quả và thả xuống biển, để thuyền buôn có thể tìm thấy. Những thương thuyền đi qua đã vớt được dưa và ăn thấy ngon, từ đó tìm đến hòn đảo. Tin đồn về giống dưa ngon lành nhanh chóng lan rộng, khiến các thuyền buôn tấp nập ghé qua để đổi chác hàng hóa. Nhờ đó, gia đình An Tiêm trở nên khá giả, cuộc sống đủ đầy. Tin tức về dưa hấu cuối cùng tới tai Vua Hùng. Vua đã sai người đến đảo xem xét cuộc sống của Mai An Tiêm. Sứ thần trở về và kể lại rằng vợ chồng An Tiêm sống khá giả và bình yên, khiến Vua thầm phục con nuôi của mình. Nhà vua sau đó triệu tập An Tiêm về triều đình và phục hồi chức vụ cho chàng.

An Tiêm trở về và dâng vua giống dưa hấu mà mình may mắn có được, đồng thời phát hạt dưa cho dân chúng trồng ở những vùng đất cát. Từ đó, nước Văn Lang đã có thêm một loại trái cây nổi tiếng. Chính vì vậy, người đời sau đã tôn vinh An Tiêm là ông Tổ nghề trồng dưa hấu. 

6. Kể lại một truyền thuyết: Con Rồng cháu Tiên

Ngày xưa, có một chàng trai thuộc giống rồng, tên là Lạc Long Quân, con của thần Long Nữ. Chàng nổi bật với sức mạnh phi thường và nhiều phép màu kì diệu. Lạc Long Quân đã giúp dân làng đánh đuổi yêu quái, đồng thời dạy họ cách trồng trọt, chăn nuôi, và sinh hoạt. Ở miền núi cao phương Bắc, có nàng Âu Cơ, thuộc dòng tộc Thần Nông, xinh đẹp rực rỡ. Nàng đến thăm đất Lạc Việt nơi có nhiều cánh hoa thơm cỏ lạ. Tại đây, hai người đã gặp gỡ, yêu thương và kết thành vợ chồng.

Không lâu sau, Âu Cơ mang thai và sinh ra một bọc trứng, từ đó nở ra trăm người con, tất cả đều đẹp đẽ và hoàn hảo. Lạc Long Quân, quen với cuộc sống dưới nước, thường trở về thủy cung. Âu Cơ ở lại chăm sóc đàn con và một mình đợi chờ Lạc Long Quân trở về. Nỗi nhớ chồng dâng đầy khiến nàng buồn bã. Cuối cùng, Âu Cơ đã gọi Lạc Long Quân lên và tâm sự:

- Sao chàng có thể bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp chăm sóc đàn con nhỏ?

Lạc Long Quân trả lời:

- Ta sống ở miền nước thẳm, còn nàng ở nơi núi cao. Chúng ta khác nhau về hoàn cảnh, khó có thể sống bên nhau lâu dài. Ta sẽ đưa năm mươi con xuống biển, còn nàng mang năm mươi con lên núi, mỗi bên sẽ cai quản một nơi. Khi cần giúp đỡ, hãy nhớ đến giao ước của chúng ta.

Âu Cơ chấp nhận, nhưng trước khi lên núi, nàng nói:

- Thiếp xin làm theo lời chàng. Dù chúng ta đã sống bên nhau trọn vẹn, nay phải chia tay, lòng thiếp đau xót.

Lạc Long Quân cũng nén nỗi buồn trong giây phút chia ly, an ủi vợ:

- Dù ở xa nhưng tình cảm của chúng ta không bao giờ phai nhạt. Khi cần, chúng ta sẽ lại gặp nhau.

Âu Cơ vẫn lưu luyến, buồn bã nói:

- Thiếp luôn nhớ chàng và thương các con, không biết đến bao giờ chúng ta mới được gặp lại.

Lạc Long Quân nắm chặt tay vợ, hết lòng an ủi:

- Lòng ta cũng đau đớn khi phải rời xa nàng và các con. Đây là mệnh trời, mong nàng hiểu và thông cảm cho ta.

Sau đó, Âu Cơ và các con đồng lòng lên đường. Lạc Long Quân cùng các con trở về biển cả, còn Âu Cơ dẫn các con về đất Phong Châu. Con trưởng của họ được tôn lên làm vua, hiệu là Hùng Vương và tên nước được đặt là Văn Lang. Từ sự tích này, người Việt Nam tự hào là con cháu của Rồng và Tiên. 

Lộ trình khóa học DUO dành riêng cho cấp THCS sẽ được thiết kế riêng cho từng em học sinh, phù hợp với khả năng của các em cũng như giúp các em từng bước tăng 3 - 6 điểm trong bài thi của mình.

7. Kể lại một truyền thuyết: Yết Kiêu

7.1 Bài tham khảo 1

Yết Kiêu là một trong những danh tướng nổi bật phục vụ dưới quyền Trần Hưng Đạo, nổi bật với nhiều đóng góp trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên. Theo tài liệu tại đền Quát, Yết Kiêu, tên thật là Phạm Hữu Thế, sinh năm 1242 và qua đời năm 1301 (có nguồn ghi là 1303). Mồ côi cha từ nhỏ, ông lớn lên trong cảnh nghèo khó và phải kiếm sống bên sông nước.

Khi mới 15 tuổi, trong một buổi sáng đầy sương mù, Phạm Hữu Thế đã can thiệp để ngăn cản hai con trâu trắng húc nhau và tình cờ tìm thấy hai chiếc lông trâu. Ông nuốt chúng và từ đó có được sức mạnh và khả năng bơi lội tuyệt vời, đi lại trên nước như đi trên đất.

Năm 1285, khi quân Nguyên chuẩn bị xâm lăng lần thứ hai, Hữu Thế đã gia nhập quân đội và được Trần triều tuyển vào thủy quân. Tại hội thi tuyển chọn tài năng ở Vạn Kiếp, ông đã đánh bại Đô Châu, một đô vật nổi danh, và được Trần Hưng Đạo mời phụng sự trong quân đội.

Dưới sự chỉ huy của Trần Hưng Đạo, Yết Kiêu đã phát huy khả năng bơi lội đặc biệt của mình. Ông đã thực hiện nhiều hoạt động phá hoại các chiến thuyền của địch vào ban đêm, với kỹ năng lặn và đánh chìm khoảng 30 chiến thuyền mỗi lần.

Trong một lần bị bắt, nhờ trí thông minh và tài năng bơi lội, Yết Kiêu đã thoát khỏi kẻ thù một cách ngoạn mục. Sau cuộc kháng chiến, ông tiếp tục có nhiều đóng góp trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước, được giao nhiệm vụ tháp tùng sứ bộ sang nhà Nguyên.

Yết Kiêu không chỉ là một nhân vật lịch sử lừng danh mà còn trở thành biểu tượng của thủy quân Việt Nam, góp phần làm rạng danh quê hương và được người dân tôn vinh là thành hoàng làng. 

7.2 Bài tham khảo 2: 

Ngày xưa, có một người tên Yết Kiêu sinh sống ở làng Hạ Bì, làm nghề đánh cá. Một hôm, khi đi dọc bờ biển về làng, ông thấy hai con trâu đang húc nhau dưới ánh trăng. Sẵn có đòn ống trong tay, ông liền chạy lại và phang mạnh vào chúng. Đột nhiên, hai con trâu chạy xuống biển rồi biến mất. Ngạc nhiên, ông đoán đó là trâu thần và phát hiện có vài chiếc lông trâu dính vào đòn ống. Mừng rỡ, ông nuốt chúng vào miệng.

Kể từ đó, sức khỏe và sức mạnh của Yết Kiêu vượt trội, không ai dám cạnh tranh với ông. Đặc biệt, ông có tài lặn rất giỏi, mỗi khi lặn xuống biển bắt cá, mọi người tưởng như ông đi trên đất liền. Ông có thể ở dưới nước suốt sáu, bảy ngày mới trở lên.

Khi quân giặc từ nước ngoài xâm lược, chúng đưa một trăm chiếc tàu lớn vào cửa biển Vạn Ninh, vây bọc và cướp bóc, gây tang tóc khắp ven biển. Nhà vua phải ra lệnh tìm người có khả năng đánh đuổi giặc, hứa phong thưởng cho ai có cách giải quyết.

Yết Kiêu bèn tìm đến tâu với vua: “Tôi tuy sức mọn nhưng quyết không để chúng thoát.” Nhà vua hỏi cần bao nhiêu người và thuyền, ông đáp: “Chỉ cần một mình tôi.” Nhà vua rất vui mừng, phong ông làm Đô thống cầm thủy quân.

Yết Kiêu đến Vạn Ninh, chỉ dẫn quân sĩ chuẩn bị khoan và búa. Sau đó, một mình ông lặn xuống đáy biển, tìm đến chỗ tàu giặc để khoan và đục. Ông làm việc nhanh chóng và lặng lẽ, khiến nhiều tàu giặc chìm chỉ trong một ngày. Quân giặc hoang mang, gửi những tên bơi giỏi xuống để dò la. Khi chúng phát hiện ra Yết Kiêu đang khoan, bọn chúng xông lên nhưng không thể địch lại ông, và cuối cùng không ai thoát trở về.

Quân giặc rất sợ hãi. Sau đó, một tướng giặc mang theo ống dòm thủy tinh để theo dõi ông dưới nước. Khi thấy ông di chuyển như đang đi trên mặt đất, chúng thả vó sắt xuống để bắt ông. Không may cho Yết Kiêu, bọn giặc đã bắt sống được ông và tra hỏi: “Trong nước, mày có bao nhiêu người lặn giỏi như mày?” Ông trả lời: “Ngoài những người sống dưới nước liên tục 10 ngày, còn như tôi thì một trăm chiếc tàu cũng không chở hết bọn tôi.” Nghe thế, bọn giặc hoảng sợ.

Chúng dụ dỗ ông: “Nếu mày dẫn chúng tao bắt được đồng bọn, sẽ có phần thưởng, còn không thì sẽ chết.” Ông đồng ý: “Được, theo tôi!” Chúng tưởng thật, bắt ông cùng 10 tên lính ra biển. Lợi dụng lúc sơ hở, ông nhảy xuống nước và trốn thoát.

Khi quân giặc trở về, chúng đã chịu thiệt hại nặng nề, lại nghe Yết Kiêu nói nước Nam có nhiều người tài lặn, vì vậy, cuối cùng chúng không dám quấy nhiễu nữa. Nhà vua rất vui mừng, ca ngợi Yết Kiêu và phong ông làm đại vương. Sau khi ông mất, nhân dân nhớ ơn lập đền thờ tại cửa Vạn Ninh và nhiều nơi ven biển khác. 

8. Kể lại một truyền thuyết: Bánh chưng, bánh giầy

8.1 Bài tham khảo 1

Hùng Vương thứ sáu muốn truyền ngôi cho một trong các con trai của mình, vì vậy ông đã đưa ra điều kiện:

- Không nhất thiết phải là con trưởng, chỉ cần người nào làm vua hài lòng trong ngày lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi.

Các hoàng tử liền cho người đi khắp nơi tìm kiếm những món ngon vật lạ để dâng lên vua cha. Trong số đó, Lang Liêu là con vua nhưng sống một cuộc đời giản dị, quen với việc trồng lúa và chăm sóc đồng áng. Mẹ của Lang Liêu trước đây bị vua cha ghẻ lạnh và qua đời, để lại chàng một mình. So với các anh em, Lang Liêu là người thiệt thòi nhất. Chàng không biết phải dâng lên Tiên vương thứ gì.

Một đêm, Lang Liêu nằm mơ thấy thần mách bảo rằng:

- Trong trời đất, gạo là thứ quý giá nhất, vì nó nuôi sống con người. Hãy lấy gạo để làm bánh dâng lên Tiên vương.

Khi tỉnh dậy, chàng nhận ra đó là lời mách bảo từ thần. Lang Liêu đã lấy gạo nếp vo sạch, kết hợp với đậu xanh và thịt lợn để làm nhân, rồi gói bằng lá dong thành hình vuông và luộc trong suốt một ngày đêm. Còn loại gạo nếp đó, chàng đồ lên, giã nhuyễn và nặn thành hình tròn. Bánh vuông tượng trưng cho Trời được gọi là bánh chưng, trong khi bánh tròn tượng trưng cho Đất và được gọi là bánh giầy.

Đến ngày lễ, các hoàng tử mang đến những món ăn ngon vật lạ. Đến lượt Lang Liêu, chàng dâng hai loại bánh lên Tiên vương. Vua Hùng rất hài lòng và quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu. Từ đó, bánh chưng và bánh giầy trở thành những món ăn không thể thiếu trong dịp Tết hàng năm. 

8.2 Bài tham khảo 2

Khi về già, Hùng Vương muốn tìm người nối ngôi nhưng có tới hai mươi người con trai, khiến ông băn khoăn không biết ai sẽ phù hợp. Dù bên ngoài đã yên ổn, nhưng sóng gió ngai vàng chỉ thật sự vững vàng khi nhân dân ấm no. Nhà vua triệu tập các con và nói:

- Tổ tiên chúng ta đã có sáu đời xây dựng đất nước. Dù giặc Ân đã nhiều lần xâm lược, nhưng nhờ phúc ấm của Tiên vương, ta đã đánh đuổi được. Giờ ta đã già, không thể sống mãi, người nối ngôi cần phải thấu hiểu chí hướng của ta. Không nhất thiết phải là con trưởng. Năm nay, vào dịp lễ Tiên vương, ai làm ta hài lòng sẽ được truyền ngôi.

Các lang cố gắng làm vừa ý nhà vua, nhưng không ai biết rõ sở thích của ông. Tất cả chỉ biết chuẩn bị những món lễ thật thịnh soạn để dâng lên Tiên vương.

Trong số đó, chỉ có Lang Liêu, con thứ mười tám, là bối rối. Mẹ chàng trước đây bị vua ghẻ lạnh và qua đời, khiến chàng trở thành người thiệt thòi giữa các anh em. Trong khi những người anh khác đi tìm kiếm của cải quý giá thì Lang Liêu chỉ chăm lo công việc đồng áng, trong nhà chỉ có khoai và lúa, mà chúng thì quá bình thường.

Một đêm, Lang Liêu mộng thấy một vị thần đến bảo:

- Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Gạo nuôi sống con người và là thực phẩm không bao giờ chán. Các thứ khác tuy ngon nhưng hiếm có và không dễ làm ra. Hãy dùng gạo để làm bánh dâng lễ Tiên vương.

Khi tỉnh dậy, Lang Liêu rất vui mừng, thấy lời thần thật đúng đắn. Chàng bèn chọn gạo nếp thơm ngon, tròn mẩy, vo thật sạch. Sau đó, chàng làm nhân từ đậu xanh và thịt lợn, dùng lá dong trong vườn gói thành hình vuông, nấu thật nhừ trong một ngày một đêm. Để đổi vị, chàng cũng dùng gạo nếp để đồ lên, nhuyễn ra và nặn thành hình tròn.

Vào ngày lễ Tiên vương, các lang mang theo sơn hào hải vị, nem công chả phượng đến dâng. Nhà vua xem qua các món ăn và dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu. Vua tỏ ra rất hài lòng, liền hỏi chàng về món bánh. Lang Liêu kể lại giấc mộng thấy thần. Nhà vua trầm ngâm một lúc, quyết định đưa món bánh của Lang Liêu lên tế thần.

Sau khi tế xong, vua họp mọi người lại và nói:

- Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta gọi là bánh giầy. Bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, với thịt mỡ, đậu xanh, và lá dong đại diện cho cầm thú, cỏ cây muôn loài, ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc bên ngoài thể hiện sự đoàn kết, gắn bó lẫn nhau. Lang Liêu đã dâng lễ vật rất vừa ý ta, nên sẽ nối ngôi ta.

Từ đó, người dân chú trọng đến nghề trồng trọt, chăn nuôi và hình thành phong tục gói bánh chưng, bánh giầy vào dịp Tết. Thiếu hai món bánh này, ngày Tết sẽ như thiếu đi hương vị của nó. 

8.3 Bài tham khảo 3

Ngày xưa, Hùng Vương thứ sáu khi về già muốn tìm người nối ngôi. Tuy nhiên, ông có đến hai mươi người con trai, nên rất khó khăn trong việc lựa chọn ai xứng đáng. Dù giặc đã bị đánh bật khỏi bờ cõi, nhưng nhà vua hiểu rằng ngai vàng chỉ vững bền khi dân chúng sống ấm no. Ông quyết định triệu tập các hoàng tử và tuyên bố:

- Ai trong số các con mang được lễ vật dâng lên Trời Đất và tổ tiên có ý nghĩa nhất, ta sẽ truyền ngôi cho người đó.

Nghe vậy, các hoàng tử liền đua nhau tìm kiếm những món ngon quý hiếm để dâng vua, mong muốn được truyền ngôi báu.

Trong khi đó, Lang Liêu, con trai thứ mười tám của Vua Hùng, cảm thấy băn khoăn và lo lắng. Chàng vốn hiền lành, hiếu thảo, nhưng từ khi mẹ mất sớm, chàng thiếu người hướng dẫn nên không biết phải làm món gì để tham gia cuộc thi.

Một hôm, Lang Liêu nằm mơ thấy một vị thần đến bảo:

- Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Gạo nuôi sống con người và không bao giờ chán. Các món khác tuy ngon nhưng hiếm và khó làm ra. Con hãy dùng gạo nếp để làm bánh hình tròn và hình vuông, tượng trưng cho Trời và Đất; lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tôn vinh công ơn Cha Mẹ.

Khi tỉnh dậy, Lang Liêu rất vui mừng. Theo lời thần chỉ dẫn, chàng chọn gạo nếp thơm ngon, trắng tinh, hạt nào cũng tròn mẩy và vo thật sạch. Chàng dùng đậu xanh và thịt lợn để làm nhân, gói trong lá dong thành hình vuông, nấu thật nhừ trong một ngày một đêm. Để tạo sự khác biệt, chàng cũng đồ gạo nếp, nhuyễn ra và nặn thành hình tròn.

Đến ngày hẹn, các hoàng tử mang theo những món sơn hào hải vị. Vua Hùng xem xét từng món và dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu. Nhà vua cảm thấy ngạc nhiên, liền gọi chàng đến hỏi chuyện. Lang Liêu kể cho vua nghe về giấc mộng của mình. Sau khi nếm thử món bánh, vua thấy rất ngon và ý nghĩa, bèn triệu tập mọi người lại và nói:

- Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, với thịt mỡ, đậu xanh và lá dong đại diện cho muôn loài, ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc bên ngoài thể hiện sự đoàn kết và yêu thương. Lang Liêu đã dâng lễ vật rất hợp ý ta, nên người sẽ nối ngôi ta.

Từ đó, nhân dân chăm chỉ trồng trọt, chăn nuôi và hình thành phong tục gói bánh chưng, bánh giầy vào dịp Tết. 

9. Kể lại một truyền thuyết: Truyền thuyết Mị Châu - Trọng Thủy

Sau khi An Dương Vương xây dựng thành Cổ Loa, thần Kim Quy đã ban cho ông một chiếc móng để làm lẫy nỏ nhằm bảo vệ thành. Theo lời chỉ dạy của thần, chiếc nỏ có lẫy làm bằng móng chân của thần sẽ bắn trăm phát đều trúng cả trăm, và chỉ cần một phát đủ sức tiêu diệt hàng ngàn quân thù. An Dương Vương đã tìm một người trong số gia thần, tên là Cao Lỗ, nổi tiếng khéo tay để chế tạo chiếc nỏ thần này. Cao Lỗ đã dồn sức làm việc nhiều ngày mới hoàn thành. Chiếc nỏ rất lớn và cứng, khác với các nỏ bình thường, chỉ có thể dùng bởi những người có sức mạnh. Vua rất trân quý chiếc nỏ thần và luôn treo ở gần chỗ nằm.

Khi đó, Triệu Đà là chúa đất Nam Hải, nhiều lần đem quân sang cướp đất Âu Lạc. Nhưng vì có nỏ thần, quân Nam Hải đã bị tổn thất nặng nề, buộc Đà phải chờ đợi cơ hội. Nhận thấy không thể dùng binh, Triệu Đà đã xin hòa và cử con trai Trọng Thủy sang cầu hôn Mị Nương, nhưng thực chất là muốn tìm cách phá hủy chiếc nỏ thần.

Trong những ngày qua lại giả vờ hòa hiếu, Trọng Thủy gặp Mị Châu, con gái yêu của An Dương Vương, cô gái xinh đẹp với đôi mày ngài và mắt phượng. Trọng Thủy nhanh chóng đem lòng yêu Mị Châu, và Mị Châu cũng dần say đắm. Hai người trở nên thân thiết, không còn chỗ nào trong thành Cổ Loa mà Mị Châu không dẫn Trọng Thủy đến tham quan. An Dương Vương thấy con gái yêu nhau nên không một chút nghi ngờ và quyết định gả Mị Châu cho Trọng Thủy.

Một đêm trăng sáng, Mị Châu và Trọng Thủy ngồi trên phiến đá giữa vườn, ngắm nhìn dãy tường thành cao lớn. Trong lúc nói chuyện, Trọng Thủy hỏi Mị Châu rằng: “Ở Âu Lạc có bí quyết gì để không ai có thể đánh bại?”. Mị Châu đáp: “Âu Lạc có thành cao, hào sâu, và nỏ thần bắn một phát chết hàng nghìn quân địch, nên không ai dám tấn công.” Trọng Thủy ra vẻ ngạc nhiên, giả vờ như lần đầu nghe nói về nỏ thần và bày tỏ muốn xem nó. Mị Châu không ngần ngại, chạy vào lấy nỏ thần cho chồng xem và chỉ cho anh biết chiếc lẫy chính là móng chân của thần Kim Quy, đồng thời giảng giải cách bắn. Trọng Thủy chăm chú lắng nghe, rồi đưa nỏ lại cho Mị Châu cất đi.

Sáng hôm sau, Trọng Thủy xin phép An Dương Vương về thăm cha. Hắn thuật lại cho Triệu Đà về chiếc nỏ thần, và Triệu Đà đã sai một gia nhân làm nỏ chế tạo một chiếc lẫy giống hệt như của An Dương Vương. Khi lẫy giả đã hoàn thành, Trọng Thủy giấu vào áo rồi trở lại đất Âu Lạc.

An Dương Vương vốn yêu chiều con gái, thấy Mị Châu vui vẻ bên chồng thì cho bày tiệc rượu để ba cha con cùng vui vẻ. Trọng Thủy uống cầm chừng, còn An Dương Vương và Mị Châu say bí tỉ. Nhân lúc vua say, Trọng Thủy lén vào phòng lấy đi chiếc lẫy bằng móng chân thần Kim Quy, thay thế bằng lẫy giả.

Hôm sau, khi thấy chồng có vẻ lo lắng, Mị Châu hỏi Trọng Thủy về nỗi bận tâm của anh. Trọng Thủy đáp: “Ta sắp phải đi thăm cha, người dặn phải về ngay để lên miền Bắc.” Mị Châu buồn bã, Trọng Thủy nói tiếp: “Nếu có chiến tranh xảy ra, ta không biết tìm đâu mà gọi.” Mị Châu liền nói: “Thiếp có cái áo lông ngỗng, mỗi khi thiếp đi, sẽ rắc lông ngỗng dọc đường để chàng dễ tìm.” Nói xong, nàng nức nở khóc.

Quay về đất Nam Hải, Trọng Thủy đưa chiếc lẫy rùa vàng cho Triệu Đà, khiến ông vui mừng khôn xiết và hô lớn: “Đất Âu Lạc sẽ về tay ta!” Chẳng bao lâu sau, Triệu Đà đã ra lệnh chuẩn bị quân tấn công Âu Lạc.

Nghe tin, An Dương Vương, cậy vào nỏ thần, không chuẩn bị phòng thủ. Khi quân giặc đã đến gần, An Dương Vương sai đem nỏ thần ra bắn, nhưng chiếc nỏ không còn hiệu quả. Quân Triệu Đà liền phá cửa thành, ùa vào. Nhà vua vội vàng cưỡi ngựa, đèo Mị Châu thoát ra cửa sau. Ngồi sau lưng cha, Mị Châu đã rải lông ngỗng dọc đường.

Sau khi chạy trốn qua những con đường gập ghềnh, cha con đến Dạ Sơn gần bờ biển. Hai người định xuống ngựa nghỉ ngơi thì quân giặc đã gần đến. Thấy không còn lối thoát, An Dương Vương liền hướng ra biển, cầu khấn thần Kim Quy phù hộ. Khi vừa khấn xong, một cơn gió lốc cuốn lên cát bụi mù mịt, làm rung chuyển cả núi rừng. Thần Kim Quy xuất hiện và nói với An Dương Vương rằng: “Giặc đang ở sau lưng nhà vua.” Nhận ra tình hình nguy cấp, vua liền rút gươm chém Mỵ Châu rồi tự vẫn ở dưới biển. 

Quân Triệu Đà đã tiến vào chiếm Loa thành, trong khi Trọng Thủy một mình cưỡi ngựa theo dấu lông ngỗng để tìm Mỵ Châu. Khi đến gần bờ biển, anh thấy xác vợ nằm trên đám cỏ, mặc dù đã chết nhưng nét đẹp vẫn không phai nhạt. Trọng Thủy không kìm được nỗi đau, khóc oà lên, rồi thu nhặt thi thể của Mỵ Châu để chôn cất trong thành. Sau đó, anh đã nhảy xuống giếng mà xưa kia Mỵ Châu thường tắm.

Ngày nay, tại làng cổ Loa, trước đền thờ An Dương Vương, vẫn tồn tại một giếng được gọi là giếng Trọng Thủy. Theo truyền thuyết, khi Mỵ Châu bị cha giết, máu nàng đã chảy xuống biển, khiến trai sống được, từ đó mà có ngọc châu. Những viên ngọc trai được đem về rửa bằng nước giếng trong thành Cổ Loa thì trở nên trong sáng tuyệt đẹp. 
 

10. Kể lại một truyền thuyết: Sơn Tinh, Thủy Tinh

10.1 Bài tham khảo 1 

Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương, nàng xinh đẹp như hoa và có tính cách dịu dàng. Nhà vua rất yêu thương con gái, muốn tìm cho nàng một người chồng xứng đáng.

Khi nghe tin vua kén rể, hai chàng trai đã tới cầu hôn. Một người đến từ vùng núi Tản Viên, có khả năng đặc biệt: vẫy tay về phía Đông để làm cho cồn bãi nổi lên, vẫy tay về phía Tây thì núi đồi mọc lên. Chàng được mệnh danh là Sơn Tinh. Người còn lại cũng tài giỏi không kém: có thể gọi gió và hô mưa. Chàng được gọi là Thủy Tinh.

Cả hai chàng trai đều xuất sắc, khiến vua Hùng phân vân không biết chọn ai. Nhà vua quyết định đưa ra thử thách:

- Ta đều thấy vừa ý hai người. Vì vậy, ngày mai ai mang sính lễ đến trước sẽ được cưới Mị Nương. Sính lễ bao gồm một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng và voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi loại một đôi.

Sáng hôm sau, Sơn Tinh đến trước với sính lễ, nên đã lấy được Mị Nương. Thủy Tinh đến sau và không lấy được vợ, liền nổi giận, dẫn quân đi đánh Sơn Tinh. Thủy Tinh gọi mưa, hô gió, tạo ra bão tố khiến trời đất rung chuyển. Nước ngập tràn các đồng ruộng và nhà cửa, dâng lên các sườn đồi, thành Phong Châu chìm trong biển nước. Trước tình hình đó, Sơn Tinh bèn bốc đồi dời núi để ngăn dòng lũ.

Cuộc chiến giữa hai bên diễn ra suốt mấy tháng, nhưng Sơn Tinh vẫn đứng vững, còn sức lực của Thủy Tinh dần cạn kiệt. Cuối cùng, Thủy Tinh đành phải rút quân. Dù vậy, oán hận vẫn còn đó, hàng năm Thủy Tinh lại dâng nước tấn công Sơn Tinh, nhưng lần nào cũng thất bại. 

10.2 Bài tham khảo 2 

Vua Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên Mị Nương, một nàng công chúa xinh đẹp như hoa và có tính cách dịu dàng. Để tìm cho con một người chồng xứng đáng, nhà vua đã tổ chức lễ kén rể.

Một hôm, có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người đến từ vùng núi Tản Viên, sở hữu tài năng kỳ lạ: chỉ cần vẫy tay về phía Đông là cồn bãi nổi lên, vẫy tay về phía Tây là dãy núi đồi mọc lên. Chàng được gọi là Sơn Tinh. Chàng trai còn lại cũng không kém phần xuất sắc: có khả năng gọi gió và hô mưa, được biết đến với tên gọi Thủy Tinh. Cả hai đều ngang sức ngang tài, khiến nhà vua cảm thấy khó xử trong việc lựa chọn. Cuối cùng, vua quyết định triệu tập các Lạc hầu để bàn bạc, sau đó gọi hai chàng trai vào và nói:

- Hai người đều làm ta hài lòng, nhưng ta chỉ có một người con gái. Vì vậy, ai mang được sính lễ đến trước vào ngày mai sẽ được cưới Mị Nương.

Cả hai chàng nghe vậy đều hỏi về sính lễ gồm những gì. Nhà vua đáp:

- Sính lễ bao gồm một trăm ván cơm nếp, một trăm chiếc bánh chưng, cùng với voi chín ngà, gà chín cựa và ngựa chín hồng mao, mỗi loại một đôi.

Sáng sớm hôm sau, Sơn Tinh đã mang lễ vật đến trước. Nhà vua rất hài lòng và quyết định gả Mị Nương cho Sơn Tinh. Trong khi đó, Thủy Tinh đến sau và không lấy được vợ nên tức giận, dẫn quân đi đánh Sơn Tinh. Thủy Tinh hô mưa gọi gió tạo ra dông bão, làm nước sông dâng cao, gây ngập lụt khắp địa bàn, biến Phong Châu thành một vùng biển nước. Tuy nhiên, Sơn Tinh không hề nao núng. Nhờ sức mạnh của thần, Sơn Tinh đã bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành lũy đất để ngăn chặn dòng nước lũ. Nước sông dâng lên bao nhiêu, thì đồi núi cũng cao lên bấy nhiêu.

Cuộc chiến giữa hai bên kéo dài suốt vài tháng, nhưng Sơn Tinh vẫn kiên cường còn sức lực của Thủy Tinh đã cạn kiệt, khiến thần nước phải rút quân. Kể từ đó, mối thù không ngừng sâu nặng, hàng năm Thủy Tinh lại dâng nước tấn công Sơn Tinh, nhưng lần nào cũng bị thất bại thảm hại. 

10.3 Bài tham khảo 3

Kho tàng văn học dân gian Việt Nam chứa đựng nhiều truyền thuyết phong phú, trong đó có truyền thuyết về Sơn Tinh và Thủy Tinh. Câu chuyện này hấp dẫn với những chi tiết sinh động, đặc biệt là trong cuộc cạnh tranh cam go để giành lấy nàng Mị Nương xinh đẹp giữa hai vị thần.

Ngày xưa, vua Hùng Vương thứ mười tám có một cô công chúa tên là Mị Nương. Nàng đẹp như hoa và có tính cách hiền dịu, nên được vua thương yêu đặc biệt. Khi đến tuổi kết hôn, nhà vua muốn tìm cho con gái một chàng rể tài giỏi, xứng đáng với vẻ đẹp của nàng.

Nghe tin vua kén rể, rất nhiều chàng trai mong muốn lấy được nàng công chúa. Một ngày, có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người đến từ vùng núi Tản Viên, được mọi người gọi là Sơn Tinh nhờ tài năng vẫy tay khiến cồn bãi hiện ra ở phía Đông và núi đồi mọc lên ở phía Tây. Chàng trai còn lại, đến từ miền biển, cũng tài giỏi không kém: gọi gió, hô mưa, được mọi người gọi là Thủy Tinh. Cả hai đều xuất sắc và xứng đáng trở thành chồng của Mị Nương. Nhà vua băn khoăn không biết lựa chọn ai, nên đã triệu tập các Lạc hầu để bàn bạc. Sau đó, vua quyết định:

- Hai chàng đều đủ tư cách làm con rể của ta, nhưng ta chỉ có một người con gái. Vì thế, ngày mai ai đem sính lễ đến trước sẽ được cưới Mị Nương. Sính lễ gồm có: một trăm ván cơm nếp, một trăm chiếc bánh chưng, và một đôi voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao.

Sáng hôm sau, Sơn Tinh đã mang đủ lễ vật đến để rước Mị Nương. Đến gần trưa, Thủy Tinh mới tới, không lấy được vợ nên nổi giận, quyết định trả thù Sơn Tinh bằng cách hô mưa, gọi gió, tạo thành bão tố để dâng nước đánh Sơn Tinh. Nước ngập khắp nơi, ruộng đồng, nhà cửa chìm vào biển nước, khiến thành Phong Châu bập bềnh giữa mênh mông. Tuy nhiên, Sơn Tinh không hề lo sợ. Chàng đã dùng phép thuật bốc từng dãy núi, đồi để tạo thành một đê khổng lồ, ngăn chặn dòng nước lũ. Cuộc chiến kéo dài có vẻ như không bao giờ kết thúc, nhưng cuối cùng, khi sức lực của Thủy Tinh cạn kiệt, chàng đã buộc phải rút quân.

Mang trong mình nỗi thù hận sâu sắc, Thủy Tinh hàng năm vẫn dâng nước tấn công Sơn Tinh, mong có thể cướp lại Mị Nương. Nhưng mỗi lần, Thủy Tinh đều thất bại trước sức mạnh của Sơn Tinh. 

 

HỌC ONLINE CÙNG GIÁO VIÊN TOP 5 TRƯỜNG ĐIỂM QUỐC GIA

Khóa học online ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT:  

⭐ Xây dựng lộ trình học cá nhân hóa, giúp con tăng 3 - 6 điểm chỉ sau 1 khóa học

⭐ Học chắc - ôn kỹ, tăng khả năng đỗ vào các trường chuyên cấp 2, cấp 3 

⭐ Chọn thầy cô, lớp, môn học theo mong muốn và thời gian biểu cá nhân 

⭐ Tương tác trực tiếp hai chiều cùng thầy cô, hỗ trợ con 24/7  

⭐ Học lý thuyết đi đôi với thực hành, kết hợp chơi và học giúp con học hiệu quả 

⭐ Công nghệ AI cảnh báo học tập tân tiến, giúp con tập trung học tập

⭐ Tặng full bộ tài liệu độc quyền trong quá trình học tập được biên soạn bởi các thầy cô TOP 5 trường điểm quốc gia

Trải nghiệm khóa học DUO hoàn toàn miễn phí ngay!!
 

 

Trên đây là Soạn bài Kể lại một truyền thuyết Văn 6 kết nối tri thức, bài soạn bao gồm các bài viết tham khảo, giúp các em chuẩn bị tốt bài nói của mình trên lớp. Tham khảo ngay các bài soạn văn khác trên vuihoc.vn để chuẩn bị kiến thức thật tốt trước khi lên lớp nhé. 

>> Mời bạn tham khảo thêm: 

Banner after post bài viết tag lớp 6
| đánh giá
Hotline: 0987810990