img
Thông báo
Sắp bắt đầu năm học mới, lớp hiện tại của bạn đang là lớp {{gradeId}}, bạn có muốn thay đổi lớp không?
img

Soạn bài Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ| Văn 12 tập 1 kết nối tri thức

Tác giả Hoàng Uyên 09:41 22/07/2024 31,850 Tag Lớp 12

Dưới đây là phần soạn bài Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ| Văn 12 tập 1 kết nối tri thức của VUIHOC. Bài viết sẽ giúp bổ sung những kiến thức khi làm văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ, đồng thời cũng đưa ra một số đề văn mẫu và bài viết giúp các em tham khảo dễ dàng hơn.

Soạn bài Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ| Văn 12 tập 1 kết nối tri thức
Mục lục bài viết
{{ section?.element?.title }}
{{ item?.title }}
Mục lục bài viết x
{{section?.element?.title}}
{{item?.title}}

1. Soạn bài Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ: Bài viết tham khảo

1.1 Câu 1 trang 56 SGK Văn 12/1 Kết nối tri thức

Trong bài viết, tác giả đã dựa trên những cơ sở nào khi lựa chọn hai bài thơ để so sánh và đánh giá?

Phương pháp giải:

Chỉ ra những luận điểm thể hiện cơ sở so sánh và đánh giá hai tác phẩm, tìm điểm giống nhau và khác nhau của hai tác phẩm.

Lời giải chi tiết:

Cơ sở để so sánh hai bài Thu vịnh và Đây mùa thu tới:

a. Đều là những bài thơ tiêu biểu về chủ đề mùa thu:

- Thu vịnh: Tác phẩm của tác giả Nguyễn Khuyến, một trong số nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ ca Tú Xương.

- Đây mùa thu tới: Tác phẩm của tác giả Xuân Diệu, một trong số nhà thơ lớn của phong trào Thơ Mới.

b. Cùng chủ đề miêu tả cảnh sắc cùng tâm trạng trước mùa thu:

- Hai bài thơ đều thể hiện được cảm nhận tinh tế về mùa thu, với những hình ảnh cùng với ngôn ngữ đặc trưng.

c. Có sự tương đồng và đối lập trong cách thể hiện:

- Tương đồng: 

  • Cả hai bài thơ đều sử dụng đến thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật.

  • Bút pháp miêu tả tinh tế và giàu sức gợi tả.

  • Thể hiện được tình yêu thiên nhiên và tâm hồn nhạy cảm của tác giả.

- Đối lập: 

+ Cảnh thu: 

  • Thu vịnh: Bức tranh mùa thu mang một vẻ đẹp thanh tao, tĩnh lặng và cổ điển.
  • Đây mùa thu tới: Bức tranh mùa thu mang một vẻ đẹp rực rỡ, sôi động và hiện đại.

+ Tâm trạng: 

  • Thu vịnh: Nỗi buồn man mác cùng với niềm tiếc nuối trước sự tàn phai của thời gian.
  • Đây mùa thu tới: Niềm vui sướng và hân hoan trước vẻ đẹp của mùa thu.

d. Mục đích so sánh:

- Giúp người đọc hiểu rõ hơn về nội dung cùng với nghệ thuật của hai bài thơ.

- Làm nổi bật những đặc sắc riêng biệt của mỗi tác phẩm.

- Thấy được sự phát triển của thi ca Việt Nam qua những thời kỳ khác nhau.

1.2 Câu 2 trang 56 SGK Văn 12/1 Kết nối tri thức

Bài viết triển khai những nội dung so sánh và đánh giá như thế nào? Bạn có nhận xét như thế nào về hiệu quả của cách triển khai đó?

Phương pháp giải:

Chú ý những tiêu chí so sánh, những cơ sở mà tác giả lựa chọn để so sánh hai bài thơ.

Lời giải chi tiết:

- Bài viết khai thác những nội dung so sánh và đánh giá về đề tài; tư tưởng và tình cảm của tác giả thể hiện trong mỗi bài thơ tác giả so sánh có điểm tương đồng và khác biệt trong tư tưởng, tình cảm 

Tác giả so sánh về giá trị nghệ thuật: ngôn ngữ thơ, giọng điệu cùng với bút pháp nghệ thuật trong thơ. 

=> Bài viết đã sử dụng cách so sánh dựa vào đối tượng. 

- Nhận xét về cách triển khai: Tác giả của bài viết có cách triển khai so sánh rất toàn diện cả về cả nội dung và nghệ thuật. Với cách so sánh này chúng ta có thể dễ dàng nhìn nhận cũng như hiểu sâu sắc về tư tưởng và tình cảm trong hai bài thơ. Với cách so sánh cụ thể, chi tiết và hệ thống lập luận rất chặt chẽ tác giả đã cho người đọc cảm nhận được quan điểm và ý kiến riêng của bản thân cũng như cách cảm và cách nghĩ của chủ thể về hai bài thơ. 

1.3 Câu 3 trang 56 SGK Văn 12/1 Kết nối tri thức

Theo bạn, có thể có những cách trình bày nào khác về những nội dung so sánh và đánh giá trong bài viết?

Phương pháp giải:

Vận dụng tri thức Ngữ văn và vận dụng khả năng phân tích để có thể trả lời câu hỏi.

Lời giải chi tiết:

Ngoài cách trình bày truyền thống dựa trên từng tiêu chí, bạn có thể sử dụng một vài cách trình bày khác để bài viết thêm phần sáng tạo và thu hút:

a. So sánh dựa vào đối tượng:

- So sánh từng đối tượng riêng lẻ một, sau đó so sánh tổng quan cả hai đối tượng.

- So sánh từng khía cạnh của cả hai đối tượng, ví dụ như: so sánh nội dung hoặc so sánh nghệ thuật, so sánh giá trị.

b. So sánh dựa vào chủ đề:

- Lựa chọn một chủ đề chung dành cho hai đối tượng và so sánh cách thể hiện chủ đề ấy trong mỗi tác phẩm.

- So sánh điểm tương đồng và điểm khác biệt về cách thể hiện chủ đề.

c. So sánh dựa vào bố cục:

- Phân tích bố cục của mỗi tác phẩm và so sánh điểm tương đồng và điểm khác biệt.

- So sánh hiệu quả nghệ thuật của bố cục với mỗi tác phẩm.

d. So sánh dựa vào ngôn ngữ:

- Phân tích ngôn ngữ sử dụng ở trong hai tác phẩm và so sánh điểm tương đồng và điểm khác biệt.

- So sánh hiệu quả biểu đạt của ngôn ngữ ở trong mỗi tác phẩm.

e. So sánh dựa vào hình ảnh:

- Phân tích hình ảnh thơ ở trong hai tác phẩm và so sánh điểm tương đồng và điểm khác biệt.

- So sánh hiệu quả gợi cảm của hình ảnh thơ ở trong mỗi tác phẩm.

Sổ tay tổng hợp kiến thức môn Ngữ Văn giúp các em đạt điểm cao thi tốt nghiệp THPT. Đăng ký đặt hàng để nhận ưu đãi giảm giá cực tốt từ VUIHOC nhé!

2. Soạn bài Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ: Thực hành viết 

2.1 So sánh bức tranh mùa thu của 2 bài thơ: Đây mùa thu tới - Xuân Diệu và Đất nước - Nguyễn Đình Thi.

Bài tham khảo 1:

Văn học từ xa xưa, cho tới muôn đời sau bao giờ cũng viết về con người. Dù chỉ là tả một làn mây dòng suối, tiếng chim, cành lá, thì cũng nhằm nói đến con người. Cho nên thiên nhiên ở trong văn học là những bức tranh về tâm trạng. Người buồn thì cảnh cũng buồn, người vui thì cảnh cũng vui. Qua hai bài thơ Đây mùa thu tới của tác giả Xuân Diệu và Đất nước của tác giả Nguyễn Đình Thi, chúng ta cũng có thể thấy rõ được điều đó.

Mùa thu từ bao đời nay và sẽ còn mãi mãi là nguồn thi hứng, là đề tài vô cùng hấp dẫn đối với các bậc thi nhân. Các nhà thơ nổi tiếng trên thế giới cũng như Việt Nam như Huy-gô, Véc-len, Rim-bô, Đỗ Phủ, Nguyễn Du, Bạch Cư Dị, Nguyễn Khuyến, Tản Đà đều đã có những bài thơ vô cùng đặc sắc viết cho mùa thu. Nhưng không vì vậy mà thơ viết về mùa thu trở nên mòn sáo và đơn điệu. Bởi cảnh thu thời nào cũng thế, nhưng lòng người thì mỗi thời lại khác. Vì thế cảnh sắc mùa thu ở trong mỗi bài thơ đều có những vẻ đẹp riêng biệt độc đáo. Chính trạng thái cảm xúc của thi nhân đã quy định nên cảnh sắc mùa thu trong thơ.

Bài Đây mùa thu tới là một bài thơ rất hay viết về mùa thu của Xuân Diệu vào thời kỳ trước cách mạng. Bài Đất nước (1948-1955) của tác giả Nguyễn Đình Thi không phải là bài thơ viết về mùa thu, nhưng chính cảm hứng đất nước lại bắt đầu từ cảm hứng của mùa thu. Hai bài thơ viết vào hai giai đoạn lịch sử khác nhau, thể hiện được hai trạng thái cảm xúc khác nhau của nhà thơ với mùa thu.

Cảnh sắc mùa thu ở trong bài Đây mùa thu tới thấm một nỗi buồn. Đó là nỗi buồn muôn thuở, nhưng cũng là cái buồn của thời đại hay cái buồn của riêng “thơ mới”. Buồn vì cái lạnh len lỏi đâu đó gợi nỗi cô đơn, buồn vì sự chia lìa từ hoa cỏ và chim muông đến con người. Buồn vì một nỗi nhớ nhung ngẩn ngơ phảng phất ở trong không gian và ở trong lòng người. (Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh của rặng liễu buồn như những cô gái xõa tóc chịu tang, cùng với hàng ngàn dòng lệ hàng nối hàng tuôn rơi. Những khổ thơ tiếp theo tác giả tái hiện cảnh hoa, lá rụng, cành cây thì khô gầy và vầng trăng bơ vơ. Sương mờ không khí trời u uất... tất cả những hình ảnh đó gợi lên sự chia ly, tàn tạ và phai nhạt làm nổi rõ nên nỗi buồn cô đơn).

Cảnh thu buồn hiu hắt bi thương nhưng vẫn có một cái gì đó dịu nhẹ, trẻ trung và thật đẹp. Bởi cảnh thu ngoài việc được so sánh với một hình ảnh độc đáo, còn được tác giả Xuân Diệu miêu tả với vẻ đẹp thơ mộng thật duyên dáng, tươi mới với tấm “áo mơ phai dệt lá vàng” vừa thực lại vừa ảo. Sắc vàng mùa thu đã làm sáng lên cả không gian.

Như vậy mùa thu bên cạnh cái nét đìu hiu buồn, một nỗi buồn thật đẹp của cảnh vật, vẫn chứa đựng bên trong một sức sống vô cùng trẻ trung. Ấy là cái chất trẻ trung được phát hiện ra bằng con mắt “xanh non” của tác giả là cái sức sống của tuổi trẻ và tình yêu xốn xao ở trong cảnh vật.

Cảnh thu thật đẹp mà buồn vì lòng người lúc đó còn buồn bã. Nỗi buồn của tác giả Xuân Diệu cũng là nỗi buồn của cả thế hệ trí thức tiểu tư sản đương thời “yêu đời nhưng đau đời” (Huy Cận) chưa tìm ra lối ra. Nỗi buồn đó chính là tấm lòng thiết tha yêu đời và thiết tha giao cảm với đời.

Đang trong tâm trạng đó cho nên nhà thơ rất nhạy cảm với khung cảnh đất trời chuyển vào thu:

Đây mùa thu tới, mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng

Câu thơ cất lên như một tiếng reo khẽ và vồ vập, khi chợt nhận ra được vẻ đẹp bất ngờ của mùa thu. Phải có tấm lòng rất yêu đời thì giữa cảnh thu buồn bã ấy, nhà thơ mới có thể đón nhận được một niềm vui nhỏ bé như thế. Sự nhạy cảm trong hồn thơ Xuân Diệu còn được thể hiện thông qua cách cảm nhận của mùa thu. Nếu trong phần mở đầu, tác giả phát hiện ra cảnh thu bằng thị giác để tái hiện sắc thu thì tới phần giữa bài thơ tác giả đã thâm nhập vào bên trong của cảnh vật để cảm nhận tinh tế bằng chính cảm giác của mình: Cành lá run rẩy cùng sắc lá đổi màu, nhành cây ớn lạnh tới tận xương khô, rét mướt luồn trong gió. Cuối cùng nhà thơ đã gửi gắm tâm trạng của mình vào nỗi lòng của người thiếu nữ. “Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”, một nỗi nhớ thương ngơ ngác mặc dù cho cô thiếu nữ không nói, nhưng rõ ràng đó chính là tư thế suy tư của người muốn đón nhận, của một tâm trạng đang hướng đến cuộc đời.

Tóm lại: cảnh thu, lòng người khi vào mùa thu có buồn bã cô đơn, nhưng không quá tuyệt vọng mà vẫn thật tươi trẻ. Toát lên từ toàn bộ bài thơ cảnh thu chính là vẻ đẹp của một nỗi buồn. Đó là nỗi buồn đầy cảm xúc của cái tôi cô đơn biểu hiện ra một niềm yêu đời và khát khao giao cảm với đời của tác giả Xuân Diệu.

Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi thì là bài thơ về “Đất nước rũ bùn đứng dậy sáng lòa” thông qua cuộc kháng chiến 9 năm (1946-1954) nhưng cảm hứng về đất nước lại bắt đầu từ cảm hứng mùa thu. Mở đầu là hình ảnh của mùa thu “Sáng mát trong như sáng năm xưa” và “Gió thổi mùa thu hương cốm mới”. Đó là cảnh sắc vô cùng thân thuộc của mùa thu Việt Nam muôn đời. Cảnh thu thật trong sáng và vui tươi. Đoạn thơ tiếp theo, tác giả muốn khắc hoạ cảnh mùa thu Hà Nội ra đi vì nghĩa lớn. Đó là cảnh thu cùng với vẻ đẹp thơ mộng mà man mác buồn, buồn vì tưởng như thiếu đi hẳn bóng người. Buồn vì niềm bâng khuâng lưu luyến khi phải chia ly “Người ra đi đầu không ngoảnh lại” nhưng thực ra lại chẳng muốn rời:

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Còn mùa thu hiện tại chính là mùa thu sau Cách mạng tháng Tám mùa thu tại chiến khu Việt Bắc, lúc đó đang là chiến khu tự do, căn cứ địa của cuộc kháng chiến chống Pháp, nơi Bác Hồ, Chính phủ kháng chiến đang điều khiển cuộc chiến tranh thần thánh cho toàn dân tộc. Nguyễn Đình Thi đã tới với mùa thu này bằng một niềm vui tràn ngập, là niềm vui của người tự thấy mình được tự do, dân tộc mình được tự do, ít ra là tại chiến khu này. Đang trong tâm trạng vui, cho nên tác giả thấy cảnh thu hiện ra với vẻ đẹp đầy sức sống, tươi sáng và đầy âm thanh màu sắc rộn rã, tươi vui. Bầu trời như được thay áo mới, cảnh vật như được hồi sinh, những âm thanh của cảnh vật cùng cuộc sống con người cũng ríu ran ríu rít tràn đầy niềm vui.

Và không gian mùa thu như đang trải dài, mở rộng theo những con đường, đồng lúa, dòng sông và cánh rừng trùng điệp của đất nước.

Cảm hứng của tác giả Nguyễn Đình Thi trong bài Đất nước chính là cảm hứng tự hào làm chủ của một nghệ sĩ đang tham gia trực tiếp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc độc lập tự do. Trong đoạn thơ nói về mùa thu Hà Nội vào 1946, tác giả có thể hiện tâm trạng buồn nhưng đó lại là nỗi buồn của một người tha thiết yêu quê hương mà phải tạm xa quê hương để lên đường vì nghĩa lớn. Nỗi buồn ấy khác nỗi buồn của Xuân Diệu.

Cảm hứng chủ đạo của nhà thơ vẫn là niềm vui và niềm tự hào về đất nước giang sơn gấm vóc, về sự độc lập chủ quyền vì vậy đoạn thơ viết về mùa thu ở chiến khu Việt Bắc vang lên sang sảng tự hào đầy sự kiêu hãnh.

Cùng viết về mùa thu mà Xuân Diệu chỉ thấy được một mùa thu rất đẹp mà rất buồn. Còn Nguyễn Đình Thi lại có thể tiếp nhận một mùa thu trong trẻo, đầy âm thanh lẫn màu sắc, đầy niềm vui và sức sống của cảnh vật cùng với con người. Điều đó, xét cho cùng vẫn có nguyên nhân thời đại chi phối hồn thơ. Chính cảm xúc về thời đại đã quy định nên cảm hứng và quy định tình thu của nhà thơ và từ cảm hứng cùng tình thơ của nhà thơ lại quy định cảnh sắc của mùa thu trong thơ.

Trước cách mạng, Xuân Diệu sống ở trong cảnh ngộ của người dân nô lệ. Nỗi buồn của người dân mất nước đã tạo ra cách nhìn và cách cảm của thi nhân trước mùa thu. Từ sau cách mạng Xuân Diệu đã nhìn nhận với đất nước bằng niềm vui và niềm tự hào nên cảnh thu cũng có sự thay đổi.

Ba năm qua nay lại mùa thu tới

Mỗi lần thu tới lại mùa thu tới

Thu từ nay không thu thảm thu sầu

Mà thu sướng nhuộm màu xuân mát mát

Lá biếc xanh xanh

Trời thu bát ngát

Da tươi thịt thắm

Nở lại cùng sương

Áng bay như múa khúc nghê thường

Nắng hạ giọng nói những điều dịu sáng.

Còn Nguyễn Đình Thi viết bài thơ Đất nước sau cuộc cách mạng lúc nhà thơ đã là một người dân tự do, cùng với nhân dân làm chủ đất nước. Thời đại mới, đã tạo nên nguồn cảm hứng mới cho nhà thơ. Vì vậy, cảnh thu trong cách nhìn và cách cảm nhận của nhà thơ cũng trở nên trong trẻo, tươi sáng và tràn đầy sức sống niềm vui.

>> Xem thêm: Soạn văn 12 kết nối tri thức 

Bài tham khảo 2:

Mùa thu đã trở thành thi đề trong các tác phẩm thơ ca. Hình ảnh mùa thu đã hiện lên ở trong thơ cổ điển với vẻ đẹp tuyệt mỹ. Trong thơ lãng mạn, hình ảnh của mùa thu đã nhuốm vào tâm hồn lãng mạn của thi nhân. Các nhà thơ hiện đại vẫn cứ thế say sưa ca ngợi mùa thu. Tùy theo lý tưởng, quan điểm thẩm mĩ cùng với phương pháp sáng tác của nhà thơ mà hình ảnh của mùa thu hiện lên trong thơ với một vẻ đẹp riêng. Hai bài thơ “Đây mùa thu tới” của tác giả Xuân Diệu và “Đất nước” của tác giả Nguyễn Đình Thi đều viết về mùa thu nhưng hai tâm trạng cảm xúc của thi nhân lại khác nhau biết mấy.

Bài thơ “Đây mùa thu tới” của tác giả Xuân Diệu được viết bằng cảm hứng lãng mạn và bút pháp lãng mạn. Đặc điểm của bút pháp lãng mạn là nhà thơ đã ban phát cho thiên nhiên mùa thu linh hồn của thi nhân. Tâm trạng của Xuân Diệu rất buồn “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Trong nỗi buồn vô cớ muôn thuở ấy có nỗi buồn thời thế. Nên hình ảnh của mùa thu trong thơ Xuân Diệu cũng buồn. Dĩ nhiên, thiên nhiên mùa thu gợi buồn nhưng không thể nào buồn sướt mướt như thơ của thi nhân:

“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.”

Nghệ thuật tạo hình hiện đại, liễu rủ giống như tóc của thiếu nữ buông xuống “lệ ngàn hàng”, lệ không chảy từng giọt mà chảy ra thành sợi. Những sợi nước mắt xanh chịu tang dành cho những chiếc lá vàng ra đi, chịu tang cho một “mùa thu chết”. Trong câu thơ của tác giả Xuân Diệu, trạng thái cảm xúc mùa thu đã lấn át cả thiên nhiên. Khi thì độc địa hóa cảnh vật “Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh”, khi lại thê thảm hóa cả cỏ cây:

“Những luồng run rẩy rung rinh lá

Đôi nhánh khô gầy xương mong manh”

Cảnh vật mùa thu ở đó như phai tàn, lay lắt, hoa thì “rụng cành” và lá thì “run rẩy”, trăng thì lại “tự “ngẩn ngơ”, núi thì “nhạt sương mờ”, còn khí trời “u uất”, những chuyến đò cũng “vắng người sang”. Con người hiện ra trong khung cảnh mùa thu cũng buồn:

“Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói

Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”

Đúng như Nguyễn Du đã nói: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Có thể nói rằng từng chiếc lá của mùa thu cũng nhuốm tâm hồn của thi nhân: buồn, cô đơn, tha thiết được giao cảm với đời.

Điều đáng chú ý ở đây là sắc thu, cảnh thu và tình thu đều buồn mà đẹp. Đẹp tới nỗi thi nhân phải reo lên:

“Đây mùa thu tới mùa thu tới

Với áo ma phai dệt lá vàng”

Thi nhân không phải đã không còn một chút khoái cảm khi nhìn thấy “những luồng run rẩy rung rinh lá”, khi nhìn “nàng trăng tự ngẩn ngơ”... và cả khi nhìn được “ít nhiều thiếu nữ buồn không nói”. Thi nhân gắn liền cái buồn với khung cảnh đẹp, buồn mà vẫn thấy yêu đời tưởng như nghịch lý, nhưng đó lại chính là đặc trưng tâm lý thẩm mĩ của thơ mới nói chung cũng như thơ Xuân Diệu nói riêng.

Bài thơ “Đất nước” của tác giả Nguyễn Đình Thi không phải là bài thơ viết về chủ đề mùa thu, nhưng cảm hứng về đất nước lại được bắt nguồn bằng cảm hứng mùa thu. Cảm hứng mùa thu của tác giả Nguyễn Đình Thi được viết bằng phương pháp nghệ thuật hiện thực XHCN cùng với quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh. Nhà thơ đang sinh sống ở núi rừng Việt Bắc vào sau chiến thắng Thu Đông (1947). Từ mùa thu trong sáng tại Việt Bắc “sáng mát trong...” Nhà thơ nhớ đến mùa thu Hà Nội năm xưa với đầy những kỷ niệm:

“Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”

Hình ảnh của mùa thu Hà Nội gợi ra những kỉ niệm của những người rời xa Hà Nội đi kháng chiến. Trạng thái cảm xúc của tác giả Nguyễn Đình Thi khác với Xuân Diệu trong từng hình ảnh và trong từng chiếc lá thu. Mùa thu của tác giả Nguyễn Đình Thi không có lá vàng. Những chiếc “lá rơi” chỉ gợi nên tâm trạng lưu luyến của người đi xa với Hà Nội. Người ra đi đầy sự quyết tâm, “đầu không ngoảnh lại” nhưng vẫn còn nghe rõ “sau lưng thềm nắng” âm thanh của từng chiếc lá rơi. Những người đi kháng chiến lưu luyến với Hà Nội biết chừng nào, nhưng vì nghĩa lớn mà họ quyết ra đi.

Rồi nhà thơ lại trở về với mùa thu của Việt Bắc, mùa thu kháng chiến trong sáng và vui tươi. Chiến khu Việt Bắc lúc đó đang là khu tự do căn cứ địa của kháng chiến chống Pháp, nơi mà Hồ Chủ tịch, Chính phủ đang điều khiển cuộc kháng chiến thần thánh của toàn dân tộc. Nguyễn Đình Thi đã đến mùa thu ấy với một niềm vui tràn ngập, niềm vui của người tự cảm thấy mình được tự do, dân tộc được tự do, ít ra đó là ở chiến khu này. Và người vui nên cảnh cũng thật vui:

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi 

Gió thổi rừng tre phấp phới 

Trời thu thay áo mới 

Trong biếc nói cười thiết tha

Hình ảnh của mùa thu đó là hình ảnh phản chiếu của một tâm hồn vui vẻ, náo nức và lạc quan của thi nhân trước một cuộc sống mới.

Cảm hứng của mùa thu là cảm hứng muôn thuở của những thi nhân. Nhưng qua hai bài thơ nói trên, trạng thái cảm hứng của hai nhà thơ về mùa thu lại khác nhau biết chừng nào. Mùa thu trong thơ buồn do thi nhân buồn, mùa thu trong thơ vui do thi nhân vui. Xét cho cùng là vì có quan hệ giữa thu hứng, thu cảm cùng với thời cảm (cảm xúc thời thế). Xuân Diệu trước cách mạng đã viết “Đây mùa thu tới” buồn đến thế do nhà thơ sống cô đơn với thân phận của một người dân bị mất nước nô lệ. Sau Cách mạng, Nguyễn Đình Thi náo nức về mùa thu vui, náo nức là do thi nhân là người tự do, thi nhân đang cùng nhân dân tự làm chủ đất nước và đấu tranh giải phóng đất nước. Có thể nói rằng mùa thu trong thơ Nguyễn Đình Thi là mùa thu của tâm hồn lãng mạn cách mạng.

Cũng nên nhớ rằng mùa thu của tác giả Xuân Diệu sau cách mạng cũng rất vui: “Mùa thu vàng sáng đến rồi đây/ Áo nắng em bay gió thổi đầy/ Áo trắng hai tà phơ phất hóa/ Áo vàng em mặc cánh thu bay”

2.2  So sánh, đánh giá hình tượng người lính trong Đồng chí (Chính Hữu) và Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật)

Bài tham khảo 1:

Trong văn học Việt Nam hiện đại, hình ảnh của người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc với một vị trí hết sức quan trọng. Đó không chỉ là hình tượng nghệ thuật tiêu biểu trong rất nhiều tác phẩm mà còn là biểu tượng đẹp nhất của con người Việt Nam vào thời đại Hồ Chí Minh. Phần lớn các tác giả đều có mặt trong những mũi nhọn của cuộc kháng chiến để kịp thời ghi lại những gì chân thực và sinh động hiện thực chiến đấu của các chiến sĩ của chúng ta. Hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ vào những năm đầu đánh Pháp và người chiến sĩ Giải phóng quân miền Nam vào thời đánh Mỹ đã được phản ánh khá rõ rệt với những vẻ đẹp khác nhau. Chúng ta có thể thấy được rõ điều đó thông qua bài thơ Đồng chí của tác giả Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của tác giả Phạm Tiến Duật.

Bài thơ Đồng chí được tác giả Chính Hữu sáng tác vào năm 1948, in trong tập Đầu súng trăng treo. Hình ảnh của người nông dân cầm súng được miêu tả ở trong bài thơ với vẻ đẹp mộc mạc và bình dị nhưng cũng thật lãng mạn, bay bổng. Là những nông dân quanh năm làm việc lam lũ với con trâu, mảnh ruộng, nghe theo tiếng gọi của tổ quốc, các anh đã tình nguyện rời xa quê hương đi chiến đấu. Phần đông họ chưa biết chữ, vào quân đội mới bắt đầu học i tờ nhưng họ lại có lòng yêu nước sâu sắc. Họ hiểu đơn giản mà đúng đắn rằng: chiến đấu để có thể bảo vệ tự do cho dân tộc cũng như bảo vệ mảnh vườn, thửa ruộng và mái ấm gia đình. Quyền sống thiết thực của mỗi con người đã thôi thúc họ cần phải hành động. Cuộc đời chiến sĩ rất gian nan, vất vả, vào sống ra chết đã khẳng định được phẩm chất cao đẹp của những người nông dân mặc áo lính. Từ bốn phương trời, không hẹn mà thành, họ đã gặp nhau, trở thành đồng đội và đồng chí của nhau. Sinh ra và lớn lên từ những vùng quê nghèo khổ và cơ cực, các anh mang trong mình bản chất hồn nhiên, chất phác của những con người lao động. Đi chiến đấu chống xâm lăng, các anh để lại phía sau lưng lũy tre, mảnh ruộng quen thuộc cùng với mái tranh nghèo và những người thân.

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay.”

Mặc kệ lối nói tự nhiên và mộc mạc của người nông dân, bày tỏ thái độ vô cùng dứt khoát trong việc nước hơn việc nhà. Dứt khoát thế nhưng lại không khỏi nhớ tới quê hương, làng mạc và gia đình. Nỗi nhớ của những người chiến sĩ thật đơn giản và cụ thể: ruộng nương, gốc đa, giếng nước và mái tranh... gắn liền với nơi chôn nhau cắt rốn chính là ở miền quê nghèo khó. Trong môi trường quân đội, các anh đã cùng nhau gắn bó, chia sẻ tất cả vui buồn và gian khổ, sống chết cùng nhau. Còn gì chân thành và tin tưởng hơn là những cái siết tay của đồng đội truyền hơi ấm và sức mạnh cho nhau vào những thời điểm gian nan và nguy hiểm? Buổi đầu kháng chiến, quân và dân ta đã đánh giặc gần như chỉ với đôi bàn tay trắng. Bộ đội có gì thì mặc nấy, có cái gì dùng cái nấy, đâu được trang bị một cách đầy đủ như thời buổi bây giờ. Đẹp biết mấy đó là nụ cười lạc quan của những người chiến sĩ. Cười trong buốt giá là thái độ khá coi thường khó khăn, gian khổ, chính là niềm tin vững chắc vào một tương lai chiến thắng. Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng rất sâu sắc:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.”

Đó là hình ảnh thật đơn sơ nhưng tuyệt vời thi vị về anh Vệ quốc vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến, đồng thời cũng chính là lời ngợi ca tình đồng chí thiêng liêng giữa những con người vẫn luôn kề vai sát cánh để bảo vệ Tổ quốc, đem tới cuộc sống thanh bình cho toàn dân tộc. Nếu bài thơ Đồng chí là hình ảnh về người lính Cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống Pháp thì Bài thơ về tiểu đội xe không kính là hình ảnh của những người lính Giải phóng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ và quyết liệt. Người chiến sĩ làm nhiệm vụ lái xe trên đường Trường Sơn vô cùng dũng cảm và phải có sức chịu đựng gian khổ tuyệt vời nhưng cũng luôn tràn đầy tinh thần lạc quan cách mạng. Xe lăn bánh cũng đồng nghĩa với việc những người chiến sĩ lái xe bắt đầu bước vào trận đánh. Sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc nhưng họ vẫn luôn giữ vững tư thế hiên ngang, tự tin hiếm có. Đối đầu với máy bay của giặc Mỹ, các chiến sĩ lái xe của ta thường ở trong thế bị động. Vậy dựa vào đâu mà họ có thể ra trận với phong thái ung dung như vậy? Chỗ dựa tinh thần lớn nhất phải kể đến niềm tin tất thắng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, là tình cảm của tất cả vì miền Nam ruột thịt, là một chân lý vĩnh cửu "Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ" mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt toàn thể dân tộc khảng khái tuyên ngôn. Họ hiểu rằng chiến trường và đồng đội đang cần vũ khí, lương thực và thuốc men... để có đủ sức đánh trả quân thù những đòn xứng đáng. Chủ quyền độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc và của dân tộc đã thôi thúc họ hành động.

Ai đã từng một lần được đặt chân đến đường Trường Sơn vào thời kì chống Mĩ mới có thể thấu hiểu những gian khổ và hiểm nguy của người lính lái xe. Đường Trường Sơn rất gập ghềnh hiểm trở. Mùa mưa thì mưa như thác đổ. Mùa khô thì xe chạy bụi bay mù trời. Ngày nào trời quang mây tạnh thì bom đạn của giặc Mỹ cũng liên tục trút xuống những đoàn xe nối nhau đi ra mặt trận. Xe có kính người lái xe đã rất vất vả rồi, xe không có kính lại càng phải vất vả biết chừng nào! Đoàn xe chạy tạo thành những cơn lốc bụi mù trời. Xe không kính, gió lùa mạnh vào trong cabin khiến người lái xe tưởng như đang nhìn thấy gió và bụi. Gió làm cay mắt, chảy nước mắt mà lại nói rằng gió vào xoa mắt đắng thì quả là thật độc đáo và hóm hỉnh. Dường như các chàng lái xe đang ngạo nghễ thách thức cái khí hậu khắc nghiệt tại rừng núi Trường Sơn. Không còn lớp kính ngăn cách, con người và thiên nhiên như được gần gũi hơn, do đó mà tác động của cảnh vật đối với sự cảm nhận của con người cũng tăng lên gấp bội; sao trời ban đêm, cánh chim ban ngày như sa, như ùa vào trong buồng lái. Xe lao về phía trước, con đường lùi lại phía sau, người lái xe có cảm giác nhìn thấy được con đường chạy thẳng vào tim. Câu thơ chứa đựng một ý nghĩa vô cùng sâu xa: con đường đến chiến trường miền Nam chính là đích đến cho trái tim người lính.

Mỗi vất vả và gian nan đều được nhà thơ Phạm Tiến Duật miêu tả bằng những hình ảnh vô cùng chân thực, giản dị nhưng để lại ấn tượng rất sâu đậm trong lòng người đọc. Gian khổ tột cùng tuy nhiên hào hùng cũng tột bực. Đó là chất lạc quan thanh thản của một dân tộc hay chất dũng cảm thuộc về bản chất của con người Việt Nam. Các chiến sĩ lái xe chấp nhận tất cả với một thái độ vui vẻ, phớt đời và pha chút ngang tàng, rất lính. Đoạn kết của bài thơ rất đẹp. Chất hiện thực vừa nghiệt ngã vừa lãng mạn bay bổng hòa quyện với nhau:

“Không có kính, rồi xe không có đèn,

Không có mui xe, thùng xe có xước.

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước,

Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

Càng gần thắng lợi, càng có nhiều gian nan, đó là quy luật. Mức độ chiến tranh ác liệt in dấu vô cùng rõ ràng trên những chiếc xe vận tải quân sự: không kính, không mui, không đèn và thùng xe đầy vết xước do bom đạn giặc. Nhưng xe vẫn chạy theo vào hướng miền Nam - tiền tuyến lớn đang thôi thúc và vẫy gọi bởi trong xe có một trái tim rất nóng bỏng tình yêu và trách nhiệm công dân trước vận mệnh của toàn đất nước, toàn dân tộc. Hình ảnh trái tim trong câu thơ cuối cùng là một hoán dụ nghệ thuật thật ý nghĩa, đã tôn vinh tầm vóc những người chiến sĩ lái xe anh hùng và nâng cao được giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ. Tinh thần dũng cảm, thái độ thanh thản và lạc quan của những chiến sĩ lái xe trong mưa bom, bão đạn xứng đáng tiêu biểu với chủ nghĩa anh hùng cách mạng của tuổi trẻ Việt Nam, hay của dân tộc Việt Nam thời đánh Mỹ.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một bài thơ tự sự nhưng lại đậm chất trữ tình cách mạng. Nhà thơ đã khắc hoạ hình ảnh của những chiến sĩ lái xe bằng tấm lòng cảm phục và mến thương sâu sắc. Họ là những con người tự nguyện dấn thân và vui trong gian khổ, chấp nhận sự hy sinh. Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên nhưng lại giàu sức gợi cảm, hình ảnh sáng tạo độc đáo, nhịp thơ tự do và phóng khoáng... Tất cả những yếu tố ấy làm nên cái hay và cái đẹp của bài thơ. Song điều quý giá nhất vẫn chính là tình, là sự hóa thân của tác giả vào nhân vật để có thể tìm tòi, phát hiện ra những hạt ngọc long lanh trong tâm hồn thế hệ anh hùng trẻ của một dân tộc anh hùng.

Hai bài thơ của hai nhà thơ chiến sĩ đã được sáng tác trong hai hoàn cảnh và thời điểm khác nhau nhưng cùng chung một bút pháp lãng mạn và hiện thực và đều nhằm đến việc mục đích ca ngợi vẻ đẹp của người chiến sĩ trong chiến tranh giữ nước. Xuyên suốt mỗi bài thơ là cái tình, là trách nhiệm công dân đối với người chiến sĩ trước vận mệnh đất nước. Tự nguyện dấn thân, dám chấp nhận với gian khổ, hy sinh, trước sau giữ vững chí khí anh hùng và quyết tâm ra đi chiến đấu... đó là những nét đẹp vô cùng nổi bật của hình tượng người chiến sĩ ở trong thơ của Chính Hữu và Phạm Tiến Duật.

Bài tham khảo 2:

Thơ ca được bắt nguồn từ chính trong cuộc sống và có lẽ vì thế mà mỗi bài thơ mang đến sự đồng cảm giữa người đọc với người nghe và tâm hồn của nhà thơ. Đặc biệt, những bài thơ liên quan tới hình ảnh của người lính trong hai giai đoạn kháng chiến và chống Mĩ làm cho chúng ta cảm thấy yêu quý cuộc sống chiến đấu gian khổ của dân tộc hơn. Tuy nhiên, hình ảnh của người lính trong mỗi giai đoạn lại có những điểm tương đồng và điểm khác biệt, và do đó, những bài thơ trong mỗi giai đoạn cũng miêu tả về những hình ảnh người lính khác nhau, như bài thơ "Đồng chí" của tác giả Chính Hữu và "Bài thơ về Tiểu đội xe không kính" của tác giả Phạm Tiến Duật.

Sự khác biệt đầu tiên của họ nằm ở hoàn cảnh chiến đấu và xuất thân. Bài thơ "Đồng chí" được tác giả Chính Hữu sáng tác vào tháng 5 năm 1948, thời điểm mà giặc Pháp tái xâm lược nước ta vào sau cách mạng tháng 8. Cuộc sống trong chiến khu đối mặt với rất nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với những người nông dân có cuộc sống nghèo khổ. Hiểu rõ được nỗi đau của dân tộc, những người nông dân từ khắp mọi nẻo đường đất nước đã từ bỏ ruộng đồng và quê hương để chú tâm lắng nghe tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc.

"Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá."

Phạm Tiến Duật, một nhà thơ trẻ vào thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước, khác biệt với nhà thơ Chính Hữu khi sáng tác ra "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" vào tháng 5 năm 1969. Thời điểm ấy đánh dấu cuộc kháng chiến đang diễn ra một cách khốc liệt nhất, và anh gia nhập quân đội khi còn quá trẻ. Họ ra đi khi mà tuổi thanh xuân vẫn còn phơi phới, đôi chân vẫn còn tràn đầy năng lượng. Những anh hùng "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" đó không quan tâm tới tương lai rộng mở, mà trái tim họ bị níu chặt ở mặt trận, vì hai từ "yêu nước".

Vì hoàn cảnh và xuất thân là khác nhau, lý tưởng chiến đấu và ý thức giác ngộ của họ cũng không tránh được sự khác biệt. Trong bài thơ "Đồng chí", nhận thức về chiến tranh của người lính vẫn còn đơn giản và chưa sâu sắc. Họ chỉ biết rằng chiến đấu để có thể thoát khỏi ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân Pháp, để giành lại được tự do và quyền làm người. Trong tâm hồn của họ, tình đồng chí và đồng đội là một món quà thiêng liêng và quý giá nhất mà họ sẽ nhận được trong suốt quãng thời gian dài gắn liền với khẩu súng.

"Súng bên súng, đầu sát bên đầu,

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.

Đồng chí!"

Trong thời kỳ kháng chiến chống quân Mĩ, khái niệm về tinh thần yêu nước và thống nhất quốc gia đã thấm nhuần vào lòng mỗi cá nhân ở trong chiến khu. Họ hiểu rằng trong giai đoạn này, khi mà miền Bắc đang tiến hành xây dựng chế độ CNXH, miền Nam thì vẫn phải đối mặt với khó khăn do sự xâm lược của đế quốc Mĩ. Và "thống nhất" đã trở thành mục tiêu hàng đầu của dân tộc Việt Nam. Trái tim của người Việt Nam, trong đó có những người lính ở Trường Sơn, tràn đầy tinh thần lạc quan và ý chí quyết thắng để giải phóng miền Nam, cùng với tình đồng chí đã hình thành nên từ thời kỳ kháng chiến.

"Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:

Chỉ cần trong xe có một trái tim."

Thật là thiếu sót nếu như ta không nhắc tới vẻ đẹp của hai bài thơ này. "Đồng chí" thì tươi đẹp trong sự giản dị và mộc mạc, nhưng lại luôn mang trong mình sự sâu sắc. Tình đồng chí được thể hiện một cách tự nhiên và hòa hợp trong tinh thần yêu nước mãnh liệt cùng với lòng chia sẻ giữa những người bạn. Còn "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" lại nổi bật với nét trẻ trung cùng tinh thần lạc quan và dũng cảm, đong đầy sự yêu thương quê hương trong tim. Sự khao khát và niềm tin của họ đã được truyền tải thông qua những chiếc xe không kính, là phương tiện mang họ vượt qua được dãy Trường Sơn, trực tiếp tiến vào miền Nam yêu dấu.

Tuy nhiên, những người lính đó, cho dù ở thời kỳ nào, vẫn mang trong mình những nỗi nhớ mãi không phai về quê hương. Sống giữa chiến trường cùng với tình đồng chí thiêng liêng, trái tim của những người nông dân luôn luôn rạng rỡ mỗi khi nghĩ đến hình ảnh mẹ già, vợ yêu hay con thơ hiện ra trong tâm trí. Những người lính cảm thấy vô cùng xót xa khi nghĩ về ruộng đồng bỏ hoang, cỏ dại mọc um tùm và những ngôi nhà đầy cảm giác cô đơn trống trải.

"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,

Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay,

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính."

Người lính chống Mĩ lại mang đến sự khác biệt, nỗi nhớ của họ chạm tới kí ức trường học, như một sự tiếc nuối về những trang sách vẫn còn mới mẻ. Họ cảm thấy buồn bởi những giấc mơ sáng rực ở trên hành trình tương lai đã bị ngăn chặn. Tuy nhiên, họ cũng nhận thức được rằng trách nhiệm với quê hương vẫn còn ở đó, và vì thế mà họ quyết tâm đấu tranh hết mình. Họ biến con đường ra chiến trường thành một ngôi nhà chung, kết nối những trái tim với tinh thần đồng lòng sẵn sàng chống lại sự xâm lược ngoại bang.

"Bếp hoàng cầm ta dựng giữa trời,

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy."

Khi xét về nghệ thuật của hai bài thơ, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy sự khác biệt tương đối rõ ràng. Chính Hữu sử dụng đến phong cách lãng mạn, xây dựng biểu tượng cho tình đồng chí ở trong thơ của mình, như "đầu súng trăng treo". Cảm hứng tràn đầy rồi lại lắng đọng ở trong tâm hồn, biến thành hình ảnh của sự chiến đấu và hòa bình, tạo nên một bài thơ trữ tình đầy sự sâu sắc và hấp dẫn. Trái ngược với đó, Phạm Tiến Duật lại xây dựng hình ảnh của người lính bằng những thực tế ở trong cuộc sống chiến đấu, gần gũi như là "xe không kính". Hình ảnh thơ ấy thực sự độc đáo, khiến cho người đọc lần đầu tiên cảm thấy ngạc nhiên vì tính đột phá và sự đơn giản đầy tinh tế ở trong "Bài thơ về tiểu đội xe không kính".

Dù khác nhau về mặt hoàn cảnh và xuất thân, cũng như lý tưởng chiến đấu, nhưng họ có cùng chung một mục tiêu duy nhất: chiến đấu để giành lại hòa bình, độc lập, và tự do của tổ quốc. Quyết tâm là nền tảng và tinh thần là cơ sở mạnh mẽ để họ tiến về tương lai, được xây dựng nên bởi tình đồng chí. Dù biết rằng ở trong cuộc chiến, có những người đã hy sinh, nhưng đó lại chính là động lực lớn hơn, tiếp thêm sức mạnh cho ước mơ của những người chiến sĩ bay xa và bay cao hơn. Hình tượng người lính ở trong hai thời kỳ đều chứa đựng những phẩm chất vô cùng cao đẹp của anh hùng đội cụ Hồ, chúng ta cần phải trân trọng và yêu quý.

Tóm lại, người lính mãi là một biểu tượng tươi đẹp và sống động nhất trong thời kỳ chiến tranh, dù trong thời kỳ phong kiến hay là khi chống Mỹ. Họ hiện ra rất gần gũi và thân thương, với tình đồng đội vô cùng ấm áp đã, đang và sẽ mãi ấp ủ trong trái tim. Họ là những cây xương rồng thật kiên cường, dám vươn lên giữa sa mạc khô cằn. Họ là ngọn đèn chiếu sáng cho con đường quê hương, dẫn dắt đất nước ta đi đến hòa bình và phát triển được như ngày hôm nay.

2.3 So sánh, đánh giá hình tượng người lính trong "Tây Tiến" của Quang Dũng và "Đồng Chí" của Chính Hữu

Bài tham khảo 1:

Đọc bài thơ “Đồng chí” của tác giả Chính Hữu và “Tây Tiến” của tác giả Quang Dũng, ta đều bắt gặp hình ảnh của những người lính vào thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà hào hùng. Một cách giản dị và thân thương nhất, hình ảnh người lính với những điểm chung và nét riêng vô cùng độc đáo đã đem đến cho người đọc cái nhìn sâu sắc hơn về hình ảnh người lính vào thời kháng chiến chống Pháp, đồng thời cũng chia sẻ với những cảm xúc và suy nghĩ của hai tác giả cùng với sự trân trọng hơn tài năng, cách phác họa hình tượng thật khéo léo, tinh tế của hai nhà thơ.

Cùng chắp bút viết thơ trong một giai đoạn lịch sử vô cùng oai hùng của dân tộc, cả Chính Hữu và Quang Dũng đã xây dựng nên những hình tượng người lính vô cùng chân thực ở trong hai bài thơ “Đồng chí” và “Tây Tiến”. Những người lính ở trong hai bài thơ ấy đều mang nét hào hùng và hết sức hào hoa, lãng mạn. Người lính trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng xuất hiện trên một khung cảnh thiên nhiên vùng cao kỳ vĩ và hiểm trở:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Những hình ảnh dốc đèo khúc khuỷu và heo hút với “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” đó đã diễn tả vô cùng chân thực khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ nhưng cũng không kém phần hiểm trở, khiến cho chặng đường hành quân của những người lính lại càng thêm gian lao và vất vả hơn. Dẫu có khó khăn hay nhọc nhằn, người lính Tây Tiến vẫn trong tư thế luôn chủ động, ung dung, sẵn sàng và lạc quan đối diện với thực tại với vô vàn khắc nghiệt:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Đây là một cách nói giảm nói tránh về việc hy sinh và mất mát đầy đau thương mà bất kỳ người lính Tây Tiến nào cũng cần phải đối mặt. Song, những người lính đó vẫn quyết tâm, tinh thần hừng hực với lòng căm thù giặc, quyết chiến đấu để có thể trả thù và đền đáp sự ngã xuống anh dũng của những đồng đội của mình trên chặng đường dài hành quân ra trận.

Trong cảnh rừng thiêng nước độc, người lính Tây Tiến vẫn hết sức lạc quan, ung dung, họ coi nhẹ cái chết vì lý tưởng cách mạng đã tiếp thêm cho họ nghị lực và sức mạnh tinh thần:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Chiến tranh xảy đến, mất mát là điều không thể tránh khỏi, Quang Dũng nói đến sự trở về với đất mẹ của các anh một cách hết sức bi hùng và cao cả:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Vẻ đẹp hào hùng của người lính cũng đã được Chính Hữu phác họa vô cùng rõ nét. Họ là những con người không ngại khó ngại khổ, hiểm nguy, đặt lý tưởng và mục tiêu chiến đấu lên hàng đầu:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”

Cái hoàn cảnh chiến đấu với “rừng hoang sương muối” khắc nghiệt và dữ dội là vậy cũng không thể nào làm chùn bước chân, làm nản ý chí của những người lính. Vượt lên hiện tại, họ là những con người rất hiên ngang và bất khuất “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”.

Bên cạnh vẻ đẹp hào hùng, những người lính ở trong cả hai bài thơ đều mang đến vẻ đẹp hào hoa và lãng mạn. Quang Dũng miêu tả nét hào hoa đó khi người lính cùng với đồng bào vùng cao tham gia vào những lễ hội vui tươi và đầm ấm:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Hay như sự lãng mạn của người lính ở trong “Đồng chí” được thể hiện thông qua câu thơ: “Đầu súng trăng treo”.

Đều là những nhà thơ đã từng cầm súng lên để chiến đấu vì Tổ quốc, nên Quang Dũng và Chính Hữu đều có những trải nghiệm cùng với kỉ niệm sâu sắc để từ đó có thể viết về người lính đặc sắc và cảm động. Bên cạnh những nét giống nhau, người lính ở trong hai bài thơ còn có những nét riêng biệt ấn tượng. Người lính Tây Tiến đa phần ra đi từ mảnh đất Hà Nội, họ là những thanh niên và những trai trẻ vừa mới bước ra từ giảng đường. Còn ở “Đồng chí”, người lính đều là những người nông dân bỏ áo lấm bùn khoác lên mình áo lính, họ ra đi từ những làng quê nghèo khó vì sự nghiệp bảo vệ đất nước: “Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”. Nếu như ở trong “Đồng chí”, Chính Hữu sử dụng bút pháp tả thực để tập trung làm nổi bật lên vẻ đẹp của tình đồng chỉ cùng chung hoàn cảnh, chung quân ngũ và chung lý tưởng cao đẹp thì Quang Dũng lại lựa chọn khái quát vẻ đẹp chung của người lính Tây Tiến ở trên chặng đường hành quân với nhiều gian truân thử thách trong “Tây Tiến”.

Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến được gợi ra từ những cảm xúc và những kỷ niệm rất đỗi thiêng liêng của nhà thơ Quang Dũng vào khoảng thời gian tác giả gắn bó đậm sâu nghĩa tình với đoàn quân Tây Tiến. Nhà thơ đã gợi ra vẻ đẹp riêng của người lính Tây Tiến nhưng đồng thời cũng phác họa một cách chân thực và sâu sắc vẻ đẹp của cả một thế hệ anh hùng của thời kỳ lịch sử kháng chiến gian khổ và gian lao của quê hương, dân tộc. Để tái dựng lại một cách sinh động nhất về hình tượng người lính, nhà thơ Quang Dũng đã sử dụng rất tài tình bút pháp lãng mạn trên cái nền của hiện thực.

Qua hai bài thơ “Tây Tiến” và “Đồng chí”, hai nhà thơ đã phác họa ra trước mắt người đọc về hình ảnh những người lính có những điểm chung và nét riêng biệt ấn tượng, góp phần làm hoàn chỉnh hơn về bức tranh ngôn từ phác họa chân dung anh bộ đội cụ Hồ vào thời kháng chiến chống Pháp.

Bài tham khảo 2:

Quang Dũng và Chính Hữu đều là những nhà thơ cách mạng vô cùng nổi tiếng của dân tộc Việt Nam, những giá trị của các tác phẩm ấy mang một ý nghĩa rất to lớn trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ sâu sắc và mang đến một tầng ý nghĩa to lớn, giá trị của nó không chỉ để lại cho người đọc rất nhiều cảm xúc và còn làm sống lên những tinh thần thiết yếu ở trong mỗi tác phẩm của người.

Đều là những người nghệ sĩ vô cùng tài hoa, và có nhiều tài năng trong phép sử dụng ngôn ngữ và những nét điển hình trong phong cách nghệ thuật, Quang Dũng và Chính Hữu đã làm nên những giá trị vô cùng to lớn trong những tác phẩm của mình, bài thơ có rất nhiều nét tương đồng khi chủ đề của nó đều hướng đến cách mạng hướng đến một nền đại chúng. Toàn bộ giá trị của tác phẩm đều muốn hướng đến những điều có giá trị to lớn và mang một tầm ý nghĩa quan trọng cho toàn bộ tác phẩm, những giá trị của nó làm nên những điều có ý nghĩa lớn lao và hạnh phúc nhất dành cho mỗi con người.

Biệt tài sử dụng ngôn ngữ của tác giả Quang Dũng trong phong cách nghệ thuật của ông đã làm nên những giá trị thực sự to lớn trong phong cách của người, những giá trị của nó làm nên những giá trị to lớn về sự sống động như đang được sống lại những giây phút hào hùng, người chiến sĩ xuất hiện ở trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng hiện lên là những người anh hùng, kiên trì bền bỉ để vượt qua được mọi gian nan và nguy hiểm để có thể làm nên những điều có ý nghĩa và mang chân lý cao đẹp nhất.

Với nghệ thuật sử dụng hình tượng nhân vật và ngôn ngữ cùng với những điển hình về hình tượng và nghệ thuật xuất hiện ở trong tác phẩm được sử dụng một cách mạnh mẽ và có ý nghĩa sâu sắc:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Với những ngôn ngữ tinh nghịch sắc sảo và ngập tràn những giá trị màu sắc, mức độ nguy hiểm trong bài thơ đã được diễn tả ở mức độ cao nhất, và nó mang đến một mức độ trừu tượng hóa trong ngôn ngữ và biệt tài sử dụng ngôn ngữ ở trong những tác phẩm của người, giá trị ấy đã tạo nên những màu sắc lung linh sống động ở trong những giây phút hào hùng và để lại ý nghĩa sâu sắc.

Và đặc biệt đối với Chính Hữu bài thơ lại mang theo một phong cách hoàn toàn khác lạ khi nghệ thuật chân thực và hiện thực xã hội được hiện lên với những nét đặc sắc ở trong cuộc đời của tác giả, những tác phẩm ấy không chỉ để lại những giá trị mạnh mẽ và đặc trưng nhất, những lời thơ còn mang chất chân chất và nó phản ánh được cuộc sống của những người chiến sĩ cách mạng khi họ phải xa quê hương và người thân để chiến đấu ở những vùng đất mới, những người chiến sĩ của chúng ta đến từ khắp mọi nơi trên tổ quốc, và nó làm nên một đại gia đình, mạnh mẽ và sống động trong từng khoảnh khắc, mỗi tác phẩm đều đem đến những lời thơ mang màu sắc tươi tắn và tạo ra nhịp sống của những người chiến sĩ cách mạng.

Qua bao nhiêu năm tháng chiến đấu hết sức kiên cường, những người chiến sĩ của ta đã đứng lên và làm nên những giá trị sống rất mạnh mẽ và ý nghĩa cho mỗi con người, bao nhiêu niềm yêu thương được hồ khởi và sống ở trong những trang thơ ca của tác giả, với niềm tin cùng sự yêu thương khi hòa hợp dưới cùng một mái nhà, những người chiến sĩ tự phương trời xa xôi cũng đã tụ họp về đây để có thể cùng nhau làm nên những chiến công lịch sử.

Những người chiến sĩ hết sức đoàn kết và cùng với nhau làm nên những phút giây lịch sử vô cùng hào hùng, và đây là cuộc sống tươi vui và mang nhiều màu sắc, nó tạo dựng những ý nghĩa mạnh mẽ và những cuộc đời thật hạnh phúc:

Súng bên súng đầu gác bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.

Những ngôn ngữ mang nhiều màu sắc nhưng lại vô cùng chân thực đã làm nên được những cuộc đời có ý nghĩa và giá trị mạnh mẽ nhất đối với từng con người, khi ngôn ngữ tạo dựng đang tạo nên được những điều có ý nghĩa mạnh mẽ và đang lan tỏa trong cuộc đời của mỗi người. Hoàn cảnh của những người chiến sĩ trong bài thơ Đồng Chí đều xuất phát từ những người nông dân đang ngày đêm phải cố gắng và đương đầu làm nên những thành quả vô cùng to lớn đối với dân tộc, khi hoàn cảnh của họ khó khăn chỉ có những gian nhà đang lung lay, những ruộng nương thì để lại đó cho bạn thân cày. Hoàn cảnh của họ đã làm nên những giây phút thiêng liêng và đây cũng chính là động lực để họ có thể cố gắng và làm nên được những giây phút lịch sử hào hùng và có ý nghĩa nhất dành cho dân tộc Việt Nam.

Cả hai bài thơ chúng ta đều thấy hiện ra những nét điển hình ở trong phong cách sử dụng ngôn ngữ để làm nổi bật được toàn bộ tác phẩm, những giá trị của hai tác phẩm ấy đều để cho nhân loại những đặc điểm điển hình và rõ ràng nhất. Ngôn ngữ trong hai tác phẩm ấy có thể thấy có sự khác nhau khi trong Tây Tiến thì ngôn ngữ của nó hào hùng bi tráng và mang rất nhiều màu sắc biểu tượng. Còn đối với bài thơ Đồng Chí thì ngôn ngữ chất phác, và mang giá trị về màu sắc giúp làm nổi bật lên toàn bộ tác phẩm, với hai nghệ thuật có thể thấy nó hoàn toàn khác biệt, và mục đích có thể thấy là giống nhau nhưng với biệt tài sử dụng ngôn ngữ của hai tác giả.

Với những nét điển hình và đặc sắc, nó đã tạo nên sự phong phú trong nghệ thuật của tác giả đối với chính tác phẩm của mình. Những hình tượng nổi bật ở trong tác phẩm hiện lên hoàn toàn sâu sắc và mang đến màu sắc tươi tắn tạo nên những hình ảnh và giá trị mang ý nghĩa to lớn.

Sự khác biệt trong cách sử dụng ngôn ngữ cùng với tính chất biệt lập trong cách tạo hình nhân vật đã làm sống động thêm những giây phút hân hoan, và biệt lập đối với cuộc sống của nhân vật khi xuất hiện trong tác phẩm.

Những ngôn ngữ tạo ra sự biệt lập về ngôn ngữ để mang lại giá trị ý nghĩa và mang ý nghĩa biểu trưng mạnh mẽ, tác phẩm của tác giả Quang Dũng và tác giả Chính Hữu tạo nên những ý nghĩa biểu trưng về cuộc sống và giá trị mang ý nghĩa sâu sắc cho toàn bộ tác phẩm.

Những hình ảnh điển hình và sâu sắc đã tạo nên được những đặc sắc trong mỗi tác phẩm và giá trị của nó để lại cho nhân loại chính là những cái nhìn ý nghĩa và sâu sắc nhất.
 

PAS VUIHOCGIẢI PHÁP ÔN LUYỆN CÁ NHÂN HÓA

Khóa học online ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT:  

⭐ Xây dựng lộ trình học từ mất gốc đến 27+  

⭐ Chọn thầy cô, lớp, môn học theo sở thích  

⭐ Tương tác trực tiếp hai chiều cùng thầy cô  

⭐ Học đi học lại đến khi nào hiểu bài thì thôi

⭐ Rèn tips tricks giúp tăng tốc thời gian làm đề

⭐ Tặng full bộ tài liệu độc quyền trong quá trình học tập

Đăng ký học thử miễn phí ngay!!

 

Trên đây là phần soạn Soạn bài Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ Văn 12 tập 1 kết nối tri thức. Thông qua những kiến thức, lưu ý và những bài viết tham khảo mà VUIHOC đã chuẩn bị ở trên, mong rằng các em có thể hiểu và biết cách tự làm được dạng đề này.

Ngoài phần soạn phía trên, nếu cần tham khảo thêm về nhiều bài soạn văn khác hoặc bài soạn khác trong những môn học khác thì em phải nhanh tay truy cập vào website chính thức của VUIHOC chính là vuihoc.vn để đăng ký cho mình liền một khoá học thật nhanh chóng và được nghe giải đáp thắc mắc trực tiếp từ thầy cô giáo có trình độ và chuyên môn cao của VUIHOC nhé!

>> Mời bạn tham khảo thêm: 

Banner afterpost tag lớp 12
| đánh giá
Hotline: 0987810990